Tìm kiếm

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Trọng dụng nhân tài cho phát triển đất nước


Nguồn: Tuần Việt Nam, Tác giả: VŨ QUỐC TUẤN 19/11/2011
Trong lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc ta, nhân tài thời nào cũng có. Mỗi thời đại đều có nhân tài của thời ấy, đáp ứng đúng yêu cầu của thời đại đó; và nếu như thời đại sinh nhân tài, thì đến phần mình, nhân tài thúc đẩy đất nước sang một thời đại mới. Khi nhân tài được trọng dụng, thì đất nước giữ được bờ cõi, xã hội hưng thịnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Trong công cuộc phát triển đất nước ngày nay, việc trọng dụng nhân tài lại càng có ý nghĩa quyết định.
Phát hiện nhân tài
Hiện nay, nhiệm vụ phát triển đất nước bền vững đang đòi hỏi phát huy hơn nữa tài năng, trí tuệ của toàn dân, trước hết là của đội ngũ nhân tài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội cho nhân tài phát huy tài năng, cống hiến cho đất nước, dân tộc.
Như kinh nghiệm của các nền kinh tế thị trường, có ba lĩnh vực rất cần nhân tài, đó là những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định sự phát triển của một đất nước. Đó là: (i) Lĩnh vực hoạch định chính sách; (ii) Lĩnh vực văn hóa, khoa học, công nghệ; (iii) Lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Trong ba nhóm nhân tài trên đây, nhóm nhân tài trong lĩnh vực hoạch định chính sách giữ vị trí quan trọng nhất. Đó là vì những người trong nhóm này có nhiệm vụ quyết định đường lối, quan điểm, chiến lược phát triển đất nước; quyết định thể chế, chính sách, pháp luật, v.v... tức là họ có quyền quyết định những vấn đề hệ trọng liên quan đến sự thịnh hưng hoặc tụt hậu của đất nước. Nhóm người này nhất thiết phải là những nhân tài.
Do đó, khi chúng ta nói "phát hiện và trọng dụng nhân tài" là nói đến trách nhiệm của bộ phận lãnh đạo, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có chức năng quản lý nhà nước đối với nhân tài. Đó là trách nhiệm trước lịch sử, trách nhiệm đối với sự phát triển của dân tộc. Về phía các nhân tài, đất nước ta không thiếu, vì nhân tài nảy sinh trong lòng dân tộc, do sự phát triển tất yếu của xã hội trong mỗi thời đại.
Nhân tài thường có ý thức tự trọng, không màng danh lợi, họ không đợi cơ quan có trách nhiệm "phát hiện" họ; họ cũng không cần hạ mình để được "sử dụng" hoặc để được "tôn vinh". Người tài thường bộc trực, thẳng thắn, nói thẳng ý kiến của mình, có khi cứng rắn, không uốn éo phỉnh nịnh, lấy lòng cấp trên. Nhân tài rất tự hào khi được tin dùng, sẵn sàng cống hiến với người lãnh đạo có tâm, biết tôn trọng họ; lại rất khổ tâm khi phải đặt dưới quyền của người kém tài kém đức. Họ không thích những gì phù phiếm, hình thức, không thực chất. Khi không được sử dụng, họ sẵn sàng ra đi vì có nhiều cơ hội tìm những việc phù hợp, nơi môi trường thuận lợi, họ có thể cống hiến.
Trong thời đại ngày nay, "đất dụng võ" của nhân tài đang rất thênh thang, nhân tài có thể phát huy tài năng trong nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn, không chỉ trong khu vực nhà nước, mà còn là khu vực tư nhân đang ngày càng phát triển và có nhiều triển vọng. Hiện tượng nhân tài rời cơ quan nhà nước là rất đáng quan ngại, vì có thể dẫn đến tình trạng bộ máy nhà nước yếu kém, ảnh hưởng đến chất lượng của các thể chế, chính sách.
Trách nhiệm phát hiện nhân tài trước hết là ở các vị lãnh đạo. Thực tế cho thấy việc này không thể chỉ dựa vào một số cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ, mà người phụ trách cơ quan, đơn vị phải đích thân thực hiện. Muốn phát hiện đúng nhân tài, người đứng đầu cơ quan, đơn vị (i) phải có tầm nhìn, có "con mắt tinh đời", biết ý kiến nào là đúng đắn, người nào đích thị là nhân tài; phải khuyến khích những ý kiến mới mẻ, có tính đột phá; (ii) cũng phải có cái Tâm vì dân, vì nước, vượt lên chính mình mới có thể khắc phục tư duy hẹp hòi, bè phái, địa phương, hoặc sợ mất ghế; (iii) người lãnh đạo phải là người tự nhận được rằng kiến thức của mình có hạn, cần luôn luôn lắng nghe, chịu học hỏi, vì sự nghiệp chung; đây chính là phẩm chất, đức độ của người lãnh đạo, bởi vì "người có tài mới phát hiện được nhân tài"; (iv) phải biết dựa vào dân, qua sự giám sát, đánh giá của dân mà phát hiện nhân tài.
Trọng dụng nhân tài
Để phát huy nhân tài vào công cuộc phát triển đất nước, nhất thiết phải trọng dụng nhân tài, coi lãng phí nhân tài là sự lãng phí lớn nhất, nghiêm trọng hơn lãng phí tiền bạc, là có tội đối với đất nước. Từ thực tế, xin đề xuất một số giải pháp về việc trọng dụng nhân tài trong bộ máy nhà nước như sau.
- Trước hết là về nhận thức. Cần có nhận thức sâu sắc hơn nữa về vị trí, vai trò của tri thức trong công cuộc phát triển đất nước khi hội nhập ngày càng sâu, khi cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Trong thời đại mới này, phát triển nhất thiết phải dựa trên trí tuệ, dựa vào tri thức, và như vậy, phải dựa vào nhân tài. Điều quan trọng là cái Tâm của người lãnh đạo, lấy sự phát triển của đất nước làm trọng, giữ vững tinh thần đổi mới, khắc phục triệt để những tư duy giáo điều, cũ kỹ. Chỉ có chuyển biến thực sự về nhận thức, mới biết quý nhân tài, phát hiện được nhân tài, mới có thể có những đột phá về chính sách trọng dụng, tôn vinh nhân tài.
- Cần có niềm tin ở đội ngũ nhân tài nước ta. Họ là những người yêu nước, tâm huyết, tha thiết với sự nghiệp phát triển đất nước, những người có tài năng, trình độ đóng góp vào những vấn đề then chốt của quốc kế, dân sinh... Không nên có tư tưởng bè phái, phe nhóm, nghi kỵ họ, càng không nên quy chụp tràn lan. Với các nhân tài trong đồng bào định cư ở nước ngoài, cũng cần có thái độ cởi mở, tin tưởng, tinh thần hòa hợp dân tộc, biết khai thác thế mạnh của từng người, tránh thành kiến, hẹp hòi.
- Thực hiện công khai, minh bạch việc sử dụng và tôn vinh nhân tài. Không nên coi công tác tổ chức - cán bộ như một loại công tác bí mật, khép kín trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc khép kín trong một số người. Cách làm như vậy chắc chắn không thể thu hút được người tài. Phải đề ra những tiêu chí rõ ràng, thực hiện công khai các cuộc tuyển chọn, bầu cử, bổ nhiệm, kể cả có tranh cử, để đặt người vào đúng chỗ, nhất là để khắc phục tình trạng "mua quan, bán chức". Điều quan trọng là thu hút người dân, các tổ chức xã hội vào việc tuyển chọn, đánh giá hiệu quả công việc của nhân tài, nhất là của những người lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Việc tôn vinh nhân tài (qua các giải thưởng, danh hiệu) cũng cần được chấn chỉnh, sao cho đúng thực chất, tránh những hiện tượng tiêu cực, ban phát, xin-cho.
- Thể hiện trong thực tế tinh thần dân chủ, tự do tư tưởng. Quan trọng nhất là thái độ "lắng nghe" của người lãnh đạo, không "quy chụp"; đối với những vấn đề chưa nhất trí, thì cần thảo luận công khai, tranh luận thẳng thắn. Có như vậy, nhân tài mới "nói thật", phát biểu những gì mình suy nghĩ, hiến những kế sách luôn luôn đổi mới cho lãnh đạo. Đối với những vấn đề "nhạy cảm", càng cần phải phát huy tự do tư tưởng, khuyến khích thảo luận, tranh luận, không nên né tránh. Cơ quan nhà nước nên chủ động cung cấp thông tin cho giới trí thức, cho các nhân tài, giúp cho họ có những thông tin chính thống, tin cậy.
- Sử dụng nhiều hình thức để phát huy trí tuệ của nhân tài. Cần thực hiện rộng rãi việc cơ quan, đơn vị đặt hàng cho tổ chức hoặc cá nhân nhân tài về những chương trình, đề tài, dự án cần nghiên cứu, hoặc đề án cần có ý kiến phản biện. Cần phát huy tính tích cực của trí thức - nhân tài, động viên họ chủ động đề xuất những vấn đề cần nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu. Rất nên khuyến khích hình thành các tổ chức tư vấn độc lập - các "think tank", qua đó tập hợp, khuyến khích và phát huy trí tuệ của đội ngũ nhân tài vào sự nghiệp phát triển đất nước. Đức độ của người lãnh đạo tổ chức, đơn vị là một yếu tố quyết định việc thu hút, "thu phục" người tài; thái độ chân thành, cởi mở, đức "lắng nghe" của họ là sức cảm hóa rất tự nhiên đối với nhân tài.
- Phải có đột phá trong hệ thống cơ chế, chính sách sử dụng nhân tài trong bộ máy nhà nước. Các chính sách phải bảo đảm thu hút nhân tài, giữ chân họ trong bộ máy nhà nước, để họ tập trung sức lực và thời gian cho công việc được giao; trong đó, chính sách tài chính cần được sửa đổi trước hết, không thể duy trì chế độ tiền lương quá lạc hậu như hiện nay. Nên sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết cho việc khuyến khích, phát huy nhân tài, như Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học, Luật về quyền thông tin, Luật về tư vấn, phản biện và giám sát xã hội, Luật về Hội.
Trên đây là một số ý kiến rất tóm tắt về những giải pháp quan trọng nhất cho sự trọng dụng, phát huy nhân tài vào công cuộc phát triển đất nước. Cần nâng cao hơn nữa tầm tư duy, đồng thời có đột phá về thể chế, chính sách; song điều quan trọng là người lãnh đạo, quản lý phải là người có tâm trong sáng, dám "vượt lên chính mình" để phát hiện và trọng dụng nhân tài.
Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

Tay, chân và...cái đầu


Tác giả: KỲ DUYÊN, Tuần Việt Nam
Cái gì là lịch sử khách quan, trả lại cho lịch sử khách quan. Đừng nâng cổ tích trầm trọng như chuyện lịch sử, phải "đánh giá lại", cũng đừng coi thường lịch sử, để viết lịch sử như ...cổ tích.
Tay chân và... miệng
Giữa bao chuyện bộn bề của người lớn, Phát ngôn Tuần Việt Nam tuần này xin chọn đề tài con trẻ. Một chuyện chữa bệnh thể chất, một chuyện "chữa" bệnh tâm hồn.
Khởi đầu là chuyện bệnh tay chân miệng. Căn bệnh đang hoành hành ở cả 63 tỉnh, t/p cả nước với gần 90.000 người mắc, gần 150 em bé dưới 5 tuổi đã tử vong ở 27 tỉnh, t/p, tính đến thời điểm này.
Mới đây (16/11/2011) ViệtNamNet có bài "Bệnh tay chân miệng và câu hỏi với Bộ Y tế"
Câu hỏi đó là vì sao bệnh TCM hoành hành dữ dội trên khắp nước, nhưng Bộ vẫn quyết định...làm thinh? Để ít ra, xã hội nhận thức rõ hơn về mức độ nguy hiểm cũng như dành sự quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác phòng chống dịch này của ngành.
Gõ Google, mới thấy TCM khá "thân" với con người. Thế giới đã từng công bố các đợt dịch (chỉ tính các dịch có số lượng lớn)
1997: 31 trẻ em đã chết trong một ổ dịch ở bang Sarawak ở Malaysia.
1998: Một ổ dịch ở Đài Loan, có 405 ca biến chứng nặng, và 78 em bé đã chết
2007: Ổ dịch lớn nhất của bệnh TCM tại Ấn Độ xảy ra  ở phía Đông của đất nước (Tây Bengal). Có 38 trường hợp mắc bệnh.
2008: Dịch bùng phát ở Trung Quốc, (tháng 3) tại Phụ Dương, An Huy, có 25.000 người mắc bệnh, và 42 người chết. Nhiều đợt dịch tương tự: Singapore (hơn 2.600 người-  tháng 4), Việt Nam (2.300 người, 11 người tử vong), Mông Cổ (1.600 người), và Brunei (1.053 người- tháng 6 đến tháng 8)
2009: 115.000 người ở Trung Quốc mắc bệnh (tháng 1 đến tháng 4), 773 người bị nặng và 50 người đã tử vong.
2010: Một ổ dịch xảy ra ở Khu tự trị tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Đông (Trung Quốc), 70.756 trẻ em  mắc bệnh và 40 người chết vì căn bệnh này.
Nếu so với số lượng người đã mắc, và tử vong vì bệnh TCM mà thế giới đã công bố, thì số trẻ mắc bệnh và tử vong vì bệnh TCM hiện nay ở Việt Nam không hề nhỏ. Thậm chí rất lớn.
Tìm hiểu nữa mới biết, TCM thuộc bệnh truyền nhiễm nhóm B. Do thẩm quyền Chủ tịch các UBND các địa phương công bố. Và chỉ khi có hai địa phương trở lên công bố có dịch, Bộ Y tế mới Bớ làng...bớ nước...
Ngày 4/11/2011, Ninh Thuận là tỉnh đầu tiên của cả nước công bố có dịch TCM. Ngay lập tức, được báo chí gọi là hành động dũng cảm.
Thực ra, cũng phải khi không kiểm soát nổi, mức độ trẻ mắc bệnh tăng gấp 23,7 lần so với năm trước, Ninh Thuận mới chấp nhận công bố dịch. Nhưng vẫn cứ được tôn vinh là dũng cảm. Dũng cảm vì... không còn thể dấu và kiểm soát được nữa.
Trong khi đó tại Quảng Ngãi, số trẻ tử vong đã là 5 em, tỉ lệ mắc bệnh cao gấp 45 lần so với cùng kỳ năm trước. So với các điều kiện y tế, môi trường sống, Quảng Ngãi khó khăn bội phần, nhưng dứt khoát Chủ tịch tỉnh kiểm soát được... cái sự phát ngôn, lấy im lặng là...vàng.
Chỉ khổ cho ông già Ozone- TS vật lý Nguyễn Văn Khải. Lọ mọ xách dung dịch Anolyte vào Ninh Thuận chữa bệnh cho trẻ em. Và mặc dù được ghi nhận một số trẻ mắc bệnh TCM tại Ninh Thuận đã lui bệnh sau khi dùng nước Ozone, nhưng Bộ Y tế vẫn không đồng ý. Bệnh TCM ở Ninh Thuận chưa lui, thì ông già Ozone đã phải... lui, trước cái mà nhiều người gọi đích danh- sự tự ái của Bộ Y tế. Dù không ai khẳng định Anolyte chữa khỏi hoàn toàn bệnh TCM.
Cái nước mình nó thế! Cố GS Hoàng Ngọc Hiến không ngờ câu nói hóm của ông trở thành châm ngôn hiện đại, mang tính phổ quát!
Còn vì sao Quảng Ngãi mắc "bệnh" im lặng? Liệu đó có phải là triệu chứng bên ngoài của căn bệnh thành tích không? Chỉ Quảng Ngãi mới tự trả lời được
Người ta vẫn bảo, im lặng lại là cách nói rõ nhất đó!
Cổ tích và thước đo lịch sử
Còn "chữa bệnh" tâm hồn là câu chuyện sửa cái kết của cổ tích Tấm- Cám, một cổ tích tiêu biểu mà người Việt nào cũng nhớ, đã gây ra sự tranh luận náo nhiệt, hoặc ủng hộ hoặc phản đối.
Nếu trước đây, cô Tấm thảo hiền chặt Cám- cô em mình làm mắm, rồi gửi về cho dì ghẻ, mẹ đẻ của Cám ăn, thì nay, Tấm đào hố, lừa Cám xuống và dội nước sôi (!) Một cái kết, mà theo tác giả Hà Văn Thịnh trong bài "Viết lại truyện cổ tích, tại sao không?" là sự dã man chẳng kém gì nhau.
Đúng là dã man chẳng kém gì nhau. Thậm chí sự dã man sau, cách tính toán còn thâm độc hơn. Đó là độc ác đi kèm lừa dối.
Trước đó, ngày 14/11/2011, bài viết của tác giả Nguyễn Văn Toàn, cũng trên Tuần Việt Nam lại cho rằng, nếu sửa cái kết của Tấm Cám, thì điều đó làm méo mó cái nhìn thời đại.
Người viết bài chợt nhớ cách đây ít lâu, nhà thơ Bùi Hoàng Tám có bài thơ khá hay: Về đi - Vọng phu!
Lòng chung thủy trở thành nhảm nhí
Trước thiêng liêng số phận một con người
Về đi - Vọng phu!
Mọi hi vọng đều qua rồi
Người đi không thể về được nữa
Về đi em
Trời quê mình vốn nhiều giông gió
Em và con mỏng manh chống trả thế nào!?
Về đi em
Người đời yêu nhau người ta chờ nhau
Dẫu là đá
Dẫu không còn là đá
Nhưng con em trên tay em đang đói lả.
Em hóa đá vì chồng
Con hóa đá vì ai?
Em hóa đá vì chồng
Con
Hóa
Đá

Ai...!?
Bài thơ đã khiến bao người yêu thơ, yêu cổ tích Nàng Vọng phu đồng cảm. Bởi cho rằng, đó là cách nhìn mới về một sự hy sinh vô ích, thậm chí ở đây lòng chung thủy trở thành nhảm nhí.
Nhưng người viết bài, khi đó quan niệm rằng, cảm thương và khuyên nhủ nàng Vọng phu, nhà thơ quên mất một điều, sự tích dân gian bao giờ cũng là con đẻ của một nền triết luận, luân lý, thậm chí là khoa học kỹ thuật...của thời đại ấy, dù còn rất sơ khai.
Nàng Vọng phu là sản phẩm của giáo lý một thời xưa cũ, khi xã hội Việt Nam ảnh hưởng rất nặng tư tưởng Nho giáo, Khổng giáo. Người đàn bà phải tam tòng tứ đức- có chồng phải theo chồng. Chồng bỏ đi xa thì nàng bồng con chờ đợi.
Chờ mãi. Đợi mãi. Đến hóa đá. Nàng hóa đá và con tim của nàng có lẽ cũng hóa đá. Nhưng nàng vẫn chờ. Hóa đá là "lẽ phải của đạo lý" thông thường ở thời của nàng.
Và ở phương diện đó, tình yêu của nàng không có tội, không hề nhảm nhí. Còn đứa con dứt ruột, mẹ là tất cả của nó. Nó cũng hóa đá vì tình yêu bi thương của mẹ dành cho cha nó.
Chẳng riêng gì phương Đông, phương Tây cũng có K. Simonov đó thôi: Em ơi, đợi anh về. Đợi anh hoài em nhé. Mưa vẫn rơi dầm dề. Ngày có dài lê thê. Thì em ơi, em cứ đợi.... Nàng Vọng phu của nhà thơ nước Nga liệu có chịu hóa đá? Hay đó chỉ là chỗ gặp nhau trong thi ca, trong cổ tích phương Đông- phương Tây?
Khi khuyên nhủ Nàng Vọng phu trở về, chính là nhà thơ nhìn Nàng Vọng phu xưa cũ bằng con mắt của thời đại mới, của triết học mới, tư tưởng mới. Thời mà bản ngã cá nhân lẫn quyền con người, nhất là người đàn bà được tôn trọng, được giải phóng.
Thì sẽ chỉ thấy cái vô lý của sự hóa đá, cái hạn chế của nàng mà ko nhìn thấy đó là sự hạn chế của cả một thời đại.
Cho dù là nhân ái, nhà thơ đã đem cái thước đo của thời hiện đại, để đo quá khứ. Nhưng hai thời đại khác nhau một tầm lịch sử.
Cũng vậy thôi, nếu bây giờ người ta đo cái hành động trả thù của cô Tấm trong truyện cổ tích vốn đa tầng, đa nghĩa, bằng cái nhìn của tư duy và luật pháp hiện đại, sẽ không cảm nhận hết đó chính là thông điệp cao nhất của nhân gian trong xã hội tiểu nông.
Họ yếm thế, phẫn nộ nên gửi gắm vào cổ tích, mong muốn sự công bằng xã hội, theo triết lý nhân sinh phải rạch ròi, sòng phẳng "có ơn trả ơn, có oán trả oán". Và phải trả oán bằng sự trừng phạt cao nhất- làm mắm! Đó là sự giải tỏa cao nhất sự căm phẫn cái ác.
Cổ tích có thân phận của nó, có tưởng tượng, có hư cấu, nhưng luôn gắn với hoàn cảnh lịch sử khách quan. Trải qua bao biến thiến, đời này đời khác, Tấm Cám được bồi đắp, có nhiều dị bản, nhưng cái kết vẫn giống nhau- đó là sự trừng phạt cái ác một cách nghiêm khắc nhất.
Hành động của Tấm khi trả thù Cám, không còn là hành động của một cá nhân, một cô chị với một cô em. Nó là xử lý của luật pháp đương thời. Và dưới cái nhìn hiện đại ngày nay, nó có phần man rợ, mang tính lề thói, lệ làng. Khiến cho giữa thời hiện đại, con người ta vẫn không thôi tranh luận về quá khứ, về cổ tích. Nhưng mông muội và văn minh, là hai thước đo khác nhau của hai thời đại.
Đừng sợ con trẻ bị nhiễu loạn, không phân biệt nổi giá trị Thiện- Ác. Hãy sợ xã hội chúng ta đang bị nhiễu bởi những thang bậc giá trị trắng đen. Vì cổ tích chỉ là ký ức, là di sản phi vật thể, còn xã hội là hiện tại, và những cái xấu, cái ác- tiếc thay luôn là "di sản vật thể" nhãn tiền.
Cũng đừng sợ con trẻ không biết phản biện phải trái, đúng sai. Mà hãy sợ các em chỉ học và sống kiểu thụ động. Để khi lớn lên, trước bất công phi lý cũng chỉ biết hành xử như trong câu chuyện cổ tích hiện đại mới đây: Từ đó, đến người "hiền tài" cũng im lặng..... ("Ba câu chuyện hiền tài",Tuần Việt Nam, 13/11/2011).
Nếu cái kết cổ tích, về phương diện nào cũng gây tranh cãi, xin hãy coi như tài liệu tham khảo, đọc thêm, không phải SGK chính khóa. Sự thấu thị hay giải mã cổ tích Tấm- Cám chắc chắn không bao giờ có một cách hiểu duy nhất đúng. Vì thế khó có cái kết cuối cùng.
Còn nếu cứ sửa Tấm- Cám, với cái đầu của con người hiện đại và mang tính chủ quan, có  bao cổ tích sẽ phải sửa? Như Nàng Vọng phu sửa bằng cách ...nung vôi. Như cô Tấm, thay cho việc làm mắm em gái, lại lọc lừa, đẩy em gái xuống hố và đổ nước sôi? Hay sửa xong, mỗi truyện là một kết cục đầu Ngô, mình Sở?
Cái gì cổ tích hãy trả cho cổ tích. Cái gì là lịch sử khách quan, trả lại cho lịch sử khách quan. Đừng nâng cổ tích trầm trọng như chuyện lịch sử, phải "đánh giá lại", cũng đừng coi thường lịch sử, để viết lịch sử như ...cổ tích.
Nếu không, đến lượt hậu sinh, cũng sẽ "đánh giá lại" chính chúng ta.