Ở
bậc tổ chức câu, hiện tượng sai ngữ pháp, trước hết có thể quy thành hai loại
lỗi lớn : câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh và câu sai do vi phạm quy tắc
kết hợp. Mỗi loại lỗi sai này được chia thành nhiều kiểu lỗi nhỏ, dựa vào đặc
điểm, tính chất của hiện tượng sai.
1. Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh :
Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh là loại lỗi ngữ pháp có biểu
hiện : hiện dạng của câu thiếu một hay một vài thành phần nòng cốt, mà dựa vào
văn cảnh, ta không thể phục hồi cấu trúc đầy đủ của nó.
Loại lỗi này bao gồm nhiều kiểu lỗi nhỏ :
1.1. Câu sai thiếu chủ ngữ.:
Câu sai thiếu chủ ngữ là kiểu lỗi câu sai có hiện dạng thiếu thành
phần biểu thị đối tượng của thông báo, mà dựa vào văn cảnh, ta không thể xác
định và phục hồi lại cấu trúc đầy đủ của nó.
Trong tổ chức câu bình thường, chủ ngữ là thành phần có chức năng
nêu lên đối tượng mà người viết, người nói đề cập đến. Về từ loại, chủ ngữ
thường do đại từ, danh từ hay ngữ tương đương đảm nhiệm. Do đó, một câu bị xem
là thiếu chủ ngữ khi hiện dạng của nó chỉ có động từ, tính từ, ngữ động từ, ngữ
tính từ có giá trị như vị ngữ, hay hiện dạng gồm có vị ngữ và thành phần
phụ.
Ví dụ:
(a) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan và cướp đi cuộc sống
yên lành của người dân. Ðược thể hiện rõ nét qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộcnổi tiếng của Nguyễn Ðình Chiểu(BVHS).
(B) Qua đoạn thơ trên, Tố Hữu muốn nói đến lực lượng của tập thể,
của nhân dân, của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng là vô hạn. Ðấu tranh đánh
đổ áp bức, bóc lột, thúc đẩy xã hội tiến lên(BVHS).
© Bên cạnh lời dặn dò đó, còn chỉ ra cho chúng ta thấy giá trị
tinh thần của đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau(BVHS).
(d) Qua tác phẩm này, tố cáo xã hội bất công(BVHS).
Hiện tượng câu sai thiếu chủ ngữ xuất hiện trong bài viết của học
sinh THPT khá nhiều. Trong bài viết của học sinh THCS, loại lỗi này xuất hiện
phổ biến hơn.
Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học sinh chưa nắm vững
cách thức tổ chức câu, cụ thể là chưa có ý thức về tính hoàn chỉnh tương đối
của câu.
Thiếu chủ ngữ làm cho câu không hoàn chỉnh về cấu trúc và thông
báo. Ðọc những câu này, ta không hiểu được học sinh muốn nói về ai, cái gì,
điều gì.
Ðối với kiểu lỗi sai này, cách sửa chữa chủ yếu là tạo ra chủ ngữ
sao cho phù hợp với vị ngữ có sẵn. Tất nhiên, việc tạo ra chủ ngữ một mặt phải
dựa vào vị ngữ có sẵn, mặt khác phải xem xét câu trong mối quan hệ với nội dung
và cấu trúc của đoạn văn, tức là phải đặt câu trong mối quan hệ nhiều mặt với
các câu chung quanh.
Các câu sai đã dẫn có thể được sửa chữa như sau :
(a) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan cuộc sống yên bình
của nhân dân. Tội ác của bọn chúng cũng như khí phách hiên ngang, bất khuất của
nghĩa binh đã được phản ánh sâu sắc qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộcnổi tiếng
của Nguyễn Ðình chiểu[1] .
(b) Qua đoạn thơ trên, Tố Hữu muốn nói đến sức mạnh vô địch của
tập thể, của quần chúng, nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Sức mạnh ấy có thể
đánh đổ bất cứ thế lực áp bức, bóc lột nào và thúc đẩy xã hội đi lên trên con
đường tiến bộ.
(c) Bên cạnh lời dặn dò đó, nhà thơ (tác giả) còn chỉ ra cho chúng
ta thấy rõ giá trị của tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
(d) Qua tác phẩm ấy, tác giả đã lên tiếng tố cáo xã hội áp bức,
bất công.
Cần phải phân biệt câu sai thiếu chủ ngữ với câu tỉnh lược chủ ngữ
trong văn bản. Chỉ nên xem hiện tượng khuyết chủ ngữ là câu sai khi căn cứ vào
văn cảnh chứa nó, ta không xác định được đối tượng được nói đến là gì, và do
đo,ï không thể phục hồi chủ ngữ bằng cách lặp từ vựng, thế đại từ hay thế bằng
từ đồng nghĩa. Còn câu tỉnh lược thì dựa vào văn cảnh, ta có thể phục hồi chủ
ngữ bằng các cách vừa nêu.
Ví dụ:
Họ là những người dân ấp, dân lân, vì mến nghĩamà làm quân chiêu
mộ. Là đội quân tự nguyện, tự giác, chiến đấu dũng cảm, không hề run sợ trước
súng đạn tối tân của kẻ thù(BVHS).
Dựa vào câu thứ nhất thứ nhất, ta có thể phục hồi chủ ngữ của câu
thứ hai trong ví dụ trên như sau :
Họ là đội quân tự nguyện, tự giác, chiến đấu dũng cảm...
Cũng cần phân biệt câu sai thiếu chủ ngữ với kiểu câu mà cấu trúc
chuẩn mực của nó không có chủ ngữ. Ðó là câu tồn tại, một kiểu cấu trúc đặc thù
trong tiếng Việt. Kiểu câu này có nội dung thông báo sự tồn tại, xuất hiện hay
biến mất của sự vật, hiện tượng, tính chất. Về mặt cấu trúc, đặc điểm của kiểu
câu này là chỉ có vị ngữ hay trạng ngữ và vị ngữ, trong đó, thành tố trung tâm
của vị ngữ là các động từ biểu thị ý nghĩa tồn tại (có, còn, hết...), các động
từ dùng với ý nghĩa trạng thái, hay các tính từ có ý nghĩa số lượng (đông, ít,
vắng...). Và trạng ngữ, nếu có, là một danh ngữ hay giới ngữ, có nội dung biểu
thị phạm vi không gian, thời gian.
Ví dụ:
(a) Bên cạnh chị Sứ, còn có biết bao người phụ nữ Việt Nam anh
hùng khác(BVHS).
(b) Có người rất sớm đã tìm được hướng đi đúng cho đời mình(NLPBCL,
T.III).
(c) Trong cuộc kháng chiến
cứu nước, có những chiến sĩ lao mình lấp lỗ châu mai để cho đơn vị mình tiến
lên (NTG - VVHVN).
(d) Bên đường, đứng chơ vơ một ngôi miếu cổ đen rêu(N.Ð.T).
1.2. Câu sai thiếu vị ngữ :
Câu sai thiếu vị ngữ là kiểu câu sai có hiện dạng thiếu thành phần
biểu thị nội dung thuyết minh mà dựa vào văn cảnh, ta không thể xác định và
khôi phục lại cấu trúc đầy đủ của nó.
Trong tổ chức nội bộ câu, vị ngữ là thành phần nêu lên nội dung
thuyết minh về đối tượng được nói đến. Nội dung thuyết minh có thể là hành
động, tính chất, trạng thái ... của đối tượng. Về từ loại, vị ngữ thường do
động từ, tính từ hay các ngữ tương đương đảm nhiệm. Như vậy, câu sai thiếu vị
ngữ là kiểu câu sai mà hiện dạng của nó có thể thuộc ba trường hợp sau :
(1) Danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ).
(2) Danh từ / danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ), giới ngữ (có giá
trị như trạng ngữ).
(3) Danh từ / danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ), danh ngữ (có giá
trị như giải thích ngữ).
Ví dụ:
(a) Tâm ngửng lên nhìn nét mặt hiền từ của bà Tư, rồi lại quay đi,
hơi e thẹn. Vì nàng có tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi,
miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm
thường thấy người ấy ra hàng Tâm mua kim chỉ(T.L. - GÐM).
(B) Sự xả thân vì đại nghĩa để chiến đấu cho độc lập, tự do của
dân tộc(BVHS).
© Xuân Diệu, một con người yêu đời, thiết tha với cuộc
sống(BVHS).
(d) Việt Nam, đất nước của những con người anh hùng, của những bài
ca bất diệt, những điệu hát câu hò thắm đượm tình quê(BVHS).
(e) Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu làng xóm, quê hương
tha thiết, với tinh thần xả thân vì đại nghĩa(BVHS).
Trong ví dụ (a), hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi
như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe chỉ là một danh ngữ, chưa đủ tư cách là câu.
Bởi lẽ, ta không thể hiểu được hình ảnh người con trai ấy như thế nào, ra sao.
Câu (B) cũng vậy : mới chỉ là một danh ngữ. Câu © gồm một bút danh (Xuân Diệu),
có giá trị như chủ ngữ, và một danh ngữ, có giá trị như giải thích ngữ. Ðọc câu
này, ta không rõ Xuân Diệu như thế nào, ra sao. Câu (d) cũng tương tự như ví dụ
© : một danh từ riêng (Việt Nam) và một danh ngữ có giá trị như giải thích ngữ.
Ví dụ (e) gồm có một danh ngữ (Người nghĩa sĩ Cần Giuộc) và hai giới ngữ, có
giá trị như hai trạng ngữ chỉ cách thức. Tất cả các trường hợp nêu trên đều
chưa phải là câu, bởi vì chúng đều không có thành phần nêu lên nội dung thuyết
minh về đối tượng được đề cập đến.
Hiện tượng câu sai thiếu vị ngữ xuất hiện khá nhiều trong bài làm
của học sinh, nhiều hơn kiểu câu sai thiếu chủ ngữ, nhất là kiểu có hiện dạng
giống như trường hợp (2), (3).
Thiếu vị ngữ tất nhiên làm cho câu không hoàn chỉnh về mặt cấu
trúc và thông báo. Ðọc những câu sai kiểu này, ta không rõ đối tượng được nói
đến như thế nào, ra sao.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến câu sai thiếu vị ngữ là do học sinh
nhận thức mơ hồ, thiếu chính xác về tính hoàn chỉnh tương đối của câu, hay do
học sinh nhầm lẫn các danh ngữ, giới ngữ (có giá trị như giải thích ngữ, trạng
ngữ đứng sau chủ ngữ ) với vị ngữ, từ đó, tưởng rằng câu đã hoàn chỉnh.
Về cách sửa chữa kiểu lỗi sai này, nhìn chung có hai hướng : Thứ
nhất là chuyển đổi cấu trúc có sẵn thành câu có chủ - vị hoàn chỉnh. Thứ hai là
tạo thêm vị ngữ sao cho phù hợp với cấu trúc có sẵn. Chọn cách sửa chữa nào là
tùy vào câu sai cụ thể.
Các câu sai vừa dẫn có thể sửa chữa như sau :
Câu (a), sửa theo cách thứ hai : ... Vì nàng có tâm sự kín
riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm
mỏng dễ nghe đang ám ảnh trong tâm trí của nàng...[1] .
Câu (B), sửa theo hai cách : Vì đại nghĩa, nghĩa binh đã xả
thân chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc. Hay: Tinh thần xả thân vì
độc lập, tự do của dân tộc đã tạo nên nét đẹp hùng tráng ở người nghĩa binh nông
dân.
Câu ©, sửa theo cách thứ nhất : Xuân Diệu là một con người yêu đời, thiết tha
với cuộc sống.
Câu (d), sửa theo cách thứ nhất : Việt Nam là đất nước của
những con người anh hùng, của những bài ca bất diệt và những điệu hát, câu hò
thắúm đượm tình quê.
Câu (e), sửa theo hai cách : Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với
tấm lòng yêu mến làng xóm, quê hương tha thiết, đã xả thân quên mình vì đại
nghĩa. Hay : Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu mến làng
xóm, quê hương tha thiết, với tinh thần xả thân vì đại nghĩa, đã chiến đấu quên
mình khi đối mặt với quân thù.
Trừ câu (a), hai cách sửa chữa mà chúng tôi vừa áp dụng đối với
các câu sai(B), ©, (d) và (e) mới chỉ là hai hướng sửa chữa chung đối với kiểu
lỗi sai này. Bởi vì, sửa chữa như vậy vẫn tách rời câu sai với văn cảnh chứa
chúng. Do đó, trước mỗi câu sai thiếu vị ngữ, ta áp dụng cách sửa chữa nào và
sửa chữa như thế nào, điều đó cần phải được xem xét trong mối quan hệ về ngữ
nghĩa - lô-gích với các câu lân cận trong đoạn văn.
Cũng cần lưu ý thêm, trước hiện tượng câu mà hiện dạng của nó chỉ
là một danh ngữ, chúng ta cần phải cân nhắc, phân biệt giữa một bên là câu sai
(như các câu (a), (B)) và một bên là kết quả của hiện tượng tỉnh lược (tỉnh
lược chủ ngữ và động từ trung tâm của vị ngữ), làm cho hiện dạng của câuchỉ còn
là một ngữ, có giá trị giải thích, thuyết minh cho câu trước.
Ví dụ:
(a) Văn học thời kì này đã phản ánh được tinh thần yêu nước của
nhân dân ta. Tinh thần chiến đấu, hy sinh dũng cảm của những người chiến sĩ ở
ngoài mặt trận, của những người mẹ, người vợ ở hậu phương(BVHS).
(B) Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc ấy, ánh sáng vẫn ngời
lên. Aïnh sáng của lòng thương người và yêu đời vô hạn (NL PBCL, T.III ).
1.3. Câu thiếu kết cấu chủ - vị noöng cốt.
Câu thiếu chủ - vị nòng cốt là kiểu lỗi ngữ pháp mà hiện dạng của
câu chỉ là một hay vài thành phần phụ ngoài nòng cốt, và dựa vào văn cảnh, ta
không thể phục hồi lại cấu trúc đầy đủ của nó.
Câu thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt thường rơi vào câu đơn, và
hiện dạng của kiểu lỗi câu sai này có thể quy về hai biểu hiện chính :
(1) Giới ngữ / danh ngữ (có chức năng như trạng ngữ)
(2) Giới ngữ / danh ngữ (có chức năng như trạng ngữ), danh ngữ (có
chức năng như giải thích ngữ).
Ví dụ :
(a) Trước khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước
ta, mở đầu cho một trăm năm đô hộ(BVHS).
(B) Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với tinh thần đoàn kết một
lòng chống ngoại xâm của nghĩa quân(BVHS).
© Ðể làm nổi bật lên hình ảnh cao quý và đẹp đẻ của người Nghĩa sĩ
Cần Giuộc, những người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc.
(BVHS).
(d) Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng đã cuồng nhiệt trao hết
tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi liều ! (N.K.T - MÐLNNM).
(e) Ở phòng khách và nơi nghỉ ngơi, được trang trí những bức tranh
lớn, vẽ trực tiếp vào tường hoặc những ô vải rộng. Phần nhiều mô tả cảnh mùa
thu của những cánh rừng nhiệt đới(TNH 1993).
Hiện dạng của câu (a) là một giới ngữ có chứa tiểu cú. Giới ngữ
này chỉ có giá trị là một trạng ngữ. Hiện dạng của câu (B) chỉ gồm hai giới
ngữ, có giá trị như hai trạng ngữ. Hiện dạng của câu © gồm một giới ngữ, có
chức năng như trạng ngữ , và một danh ngữ có giá trị như giải thích ngữ. Hiện
dạng của câu (d) gồm một tổ hợp, có giá trị như chuyển ngữ (thành phần phụ
chuyển tiếp), và một danh ngữ, có giá trị như trạng ngữ. Hiện dạng của câu thứ
nhất trong ví dụ (e) gồm một giới ngữ, có giá trị như trạng ngữ, và hai động
ngữ, có giá trị như hai giải thích ngữ liên hoàn. Tất cả các câu văn trên đều
không có kết cấu chủ - vị nòng cốt, kết cấu chủ vị ở bậc câu.
Câu thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt xuất hiện khá phổ biến trong
bài viết của học sinh, nhất là sai theo dạng (2) (kiểu lỗi này cũng xuất hiện
không ít trên sách báo in ấn chính thức).
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi sai này là do học sinh không nắm
vững kiến thức ngữ pháp, đặc biệt là về tính hoàn chỉnh của câu, dẫn đến sự lẫn
lộn giữa các thành phần nòng cốt với các loại thành phần phụ ngoài nòng cốt.
Cũng có trường hợp do sử dụng dấu chấm thiếu chính xác, học sinh mắc phải kiểu lỗi
này.
Ví dụ :
(f) Một lần, khi nghe bà Nghị gọi con gái là cái hai. Hắn đã cau
mày trách vợ : Sao bà cứ gọi bằng lối xách mé như vậy ? Tôi đã dặn bà phải gọi
nó bằng mợ...(BVHS).
Trong câu trên, vì học sinh sử dụng sai dấu chấm nên đã tách hai
danh ngữ có giá trị như hai trạng ngữ khỏi kết cấu chủ - vị nòng cốt, làm cho
chúng trở thành câu sai.
Ðối với lỗi kiểu sai này, nhìn chung có hai cách sửa chữa : tạo
thêm kết câu chủ - vị dựa trên cấu trúc có sẵn hay chuyển đổi cấu trúc có sẵn
của câu sai thành câu hoàn chỉnh.
Dưới đây là các câu sai đã được sửa chữa :
(a) Trước khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước
ta, mở đầu một trăm năm đô hộ, người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là những người nông
dân chân lấm tay bùn, quanh năm chỉ biết côi cút làm ăn, toan lo nghèo
khó.
(B) Với tinh thần đoàn kết một lòng, nghĩa quân đã chiến đấu dũng
cảm, xem thường mọi thứ vũ khí tối tân của giặc.
© Ðể làm nổi bật những phẩm chất cao đẹp của người nghĩa sĩ Cần
Giuộc, những người chiến sĩ - nông dân đấu tranh cho độc lập, tự do của dân
tộc, Nguyễn Ðình Chiểu đã khắc họa đậm nét tư thế hiên ngang của họ khi đối mặt
với kẻ thù.
(d) Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng cuồng nhiệt trao hết
tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi liều, cậu đã không dám nghe theo / đã
chối từ một cách hèn nhát.
(e) Phòng khách và nơi nghỉ ngơi được trang trí bằng những bức
tranh lớn, vẽ trực tiếp vào tường hoặc những ô vải rộng ...
Câu (a) được sửa chữa theo cách tạo thêm kết cấu chủ - vị nòng cốt
dựa trên cấu trúc có sẵn của câu sai. Câu (B) được sửa chữa theo cách chuyển
đổi cấu trúc của câu sai thành câu đúng, có bổ sung thêm vị ngữ thứ hai. Câu ©
được sửa theo cách tạo thêm kết cấu chủ - vị nòng cốt. Câu (d) cũng được sửa
theo cách tương tự. Câu (e) được sửa theo cách chuyển đổi cấu trúc có sẵn thành
câu đúng.
Cũng như đối với kiểu câu sai thiếu chủ ngữ và câu sai thiếu vị
ngữ, khi sửa chữa câu sai thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt, chọn lựa cách sửa
chữa nào là phải tùy vào câu sai cụ thể. Và khi tiến hành sửa chữa, nhất thiết
phải xem xét mối quan hệ về ngữ nghĩa - lô-gích giữa câu sai với các câu lân
cận trong đoạn văn để đảm bảo sự mạch lạc giữa các câu.
Riêng câu (f), chỉ cần thay dấu chấm băng dấu phẩy, ta sẽ có câu
đúng :
Một lần, khi nghe bà Nghị gọi con gái là cái Hai, hắn đã cau mày
trách vợ ...
1.4. Câu ghép phụ thuộc thiếu cú.
Câu ghép phụ thuộc (qua lại) là loại câu ghép có hai cú (hai kết
cấu chủ - vị nòng cốt) kết hợp với nhau theo quan hệ phụ thuộc. Ðiều đó có
nghĩa là, trong loại câu ghép này , hai cú ràng buộc, nương dựa lẫn nhau, không
thể tách rời nhau. Ðặc điểm đó cũng quy định, ở dạng chuẩn, loại câu ghép này
phải có hai cú, có hiện dạng đầy đủ hay không đầy đủ, không kể thành phần phụ
ngoài nòng cốt.
Trong câu ghép phụ thuộc, hai cú thường kết hợp với nhau bằng cặp
liên từ hô ứng, hay một số cặp từ loại khác, lâm thời có chức năng liên kết hai
cú. Nếu gọi L1 là liên từ thứ nhất , L2 là liên từ thứ hai, ta có mô hình cấu
trúc tiêu biểu của câu ghép phụ thuộc ở dạng đầy đủ như sau :
L1C1 - V1, L2 C2 - V2.
Câu ghép phụ thuộc thiếu cú là kiểu lỗi sai mà hiện dạng của câu
chỉ có cú thứ nhất : L1C1 - V1, hoàn toàn thiếu cú thứ hai, hay cú thứ hai chỉ
có thành phần phụ ngoài noöng cốt.
Ví dụ :
(a) Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì triều đình nhà Nguyễn
nhu nhược, hèn nhát. Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ
khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù , và hết lòng ca ngợi người nông
dân dám quên mình vì nghĩa lớn(BVHS).
(B) Mặc dù chị Sứ bị giặc bắt, bị chúng hành hạ tra tấn dã man.
Chị đã dùng phương tiện thông tin của giặc để báo cho anh em, đồng chí trong
hang biết : Các đồng chí đừng nghe tụi nó nói láo, tôi không đầu hàng đâu...
(BVHS).
© Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn trước
Cách mạng tháng Tám. Dù tâm hồn ông có lúc chán nản, hoài nghi, cô đơn. Ông đã
có những đóng góp lớn cho nền thi ca Việt Nam giai đoạn bấy giờ(BVHS).
(d) Còn về bác Phúc, nếu bác có khuyết điểm dạo làm chủ nhiệm
trước đây, mà chắc là có thôi !(N.K.T - MÐLNNM).
Trong ví dụ (a), câu thứ nhất chỉ gồm có trạng ngữ và một cú nêu
lên nguyên nhân. Câu này chỉ có một cú. Câu thứ nhất trong ví dụ (B) và câu thứ
hai trong ví dụ © cũng chỉ có một cú, nêu lên điều kiện cực đoan. Trong ví dụ
(d), cấu trúc câu gồm có một tổ hợp từ có giá trị chuyển tiếp (Còn về bác
Phúc), một kết cấu chủ - vị nòng cốt nêu lên điều kiện, và một ngữ đoạn có giá
trị như một chú thích ngữ (mà chắc là có thôi !).
Cũng có trường hợp hiện dạng của câu đầy đủ hai cú ; nhưng do học
sinh dùng sai dấu chấm, hai cú bị tách rời, trở thành câu sai :
(e) Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan
trái. Nhưng vì ông không thể giải thích nỗi cuộc đời và không biết làm thế nào
để thay đổi nó. Cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc(BVHS).
Câu ghép phụ thuộc thiếu cú xuất hiện khá nhiều trong bài làm của
học sinh. Trong bài làm của sinh viên đại học, kiểu lỗi này vẫn xuất hiện rải
rác. (Kiểu lỗi này cũng không hiếm trên sách báo in ấn chính thức, kể cả tác
phẩm của các nhà văn chuyên nghiệp như chúng tôi đã dẫn ra).
Ðối với câu ghép phụ thuộc thiếu cú, hướng sửa chữa chung là tạo
thêm cú thứ hai (L2 C2 - V2) sao cho cú này tương hợp về ngữ nghĩa, lô-gích với
cú thứ nhất đã có. Tất nhiên, khi sửa chữa từng câu cụ thể, một ặmt ta phải dựa
vào cấu trúc và nội dung biểu đã của cú đã có ; mặt khác, nhất thiết phải xem
xét đến mối quan hệ giữa câu được sửa chữa với các câu chung quanh. Và nếu thấy
cần, chúng ta còn phải sửa chữa nhỏ những câu chung quanh như thêm bớt, thay
đổi từ ngữ, để đảm bảo sự liên kết giữa các câu.
Các câu (a), (B), ©, (d) có thể sửa chữa như sau :
(a) Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì nhu nhược, hèn nhát,
nên triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng, kiï hòa ước với giặc. Trong tình hình
đó, Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ khí đấu tranh
không khoan nhượng với kẻ thù và hết lòng ca ngợi những người nông dân dám quên
mình vì nghĩa lớn. Hay : Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì triều
đình nhà Nguyễn nhu nhược, hèn nhát, nên đã đầu hàng, kí hòa ước với giặc.
Trong tình hình đó, Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ
khí đấu tranh...
Lưu ý : Hai câu trên đều được sửa chữa bằng cách tạo thêm cú thứ
hai (và tạo thêm trạng ngữ cho câu tiếp theo để đảm bảo sự liên kết chặt chẽ
giữa các câu). Chỗ khác nhau là : trong câu sửa chữa thứ nhất, chủ ngữ của cú
thứ nhất bị tỉnh lược ; còn trong câu sửa chữa thứ hai, chủ ngữ của cú thứ hai
bị tỉnh lược.
(B) Mặc dù chị Sứ bị giặc bắt , bị chúng tra tấn, hành hạ dã man,
nhưng chị không hề khuất phục. Trái lại, chị còn dùng phương tiện thông tin của
chúng để báo cho đồng chí, anh em trong hang biết : Các đồng chí...
© Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong trào lưu
thơ ca lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Dù có lúc ông cảm thấy bi quan, hoài
nghi, cô đơn, nhưng bản chất tâm hồn nhà thơ là yêu đời, thiết tha với cuộc
sống...
(d) Còn về bác Phúc, nếu bác có khuyết điểm dạo làm chủ nhiệm, mà
chắc là có thôi, thì bác nên thành thật nhìn nhận.
Riêng đối với trường hợp sai do học sinh chấm câu sai, như câu
(e), thì sửa chữa bằng cách thay dấu chấm bằng dấu phẩy để ghép hai cú lại
thành một câu hoàn chỉnh :
(e) Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan
trái. Nhưng vì ông không thể giải thích nổi cuộc đời và không biết làm thế nào
để thay đổi nó, cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc.
Cũng có thể sửa câu này theo cách khác : bỏ L1 (vì) trong cú thứ
nhất, giữ nguyên dấu chấm và cú thứ hai. Sửa như vậy tức là ta biến cú thứ nhất
thành câu đơn, còn cú thứ hai trở thành câu ghép qua lại bị tỉnh lược cú thứ
nhất, hiện dạng chỉ còn cú thứ hai, và L2 (cho nên) trở thành phương tiện liên
kết câu (phương tiện nối) :
Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái.
Nhưng ông không thể giải thích nổi cuộc đời và không biết làm thế nào để thay
đổi nó. Cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc.
Ở đây, cũng cần phân biệt câu ghép phụ thuộc thiếu cú, một kiểu
lỗi ngữ pháp, với câu ghép phụ thuộc có hiện dạng một cú, kết quả của việc tỉnh
lược câu trong văn bản, một biến thể cấu trúc của câu ghép phụ thuộc, vẫn được
xem là chuẩn mực. Như đã trình bày, cấu trúc của câu ghép phụ thuộc thiếu cú
chỉ có cú thứ nhất (L1C1-V1). Trong khi đó, hiện dạng của câu ghép phụ thuộc
tỉnh lược lại chỉ có cú thứ hai (L2C2-V2 ), cú thứ nhất xem như đã lược
bỏ.
Ví dụ :
Ðối với đối tượng của mình, nói chung Nguyễn Khuyến ít có thái độ
hằn học, mạt sát. Nhưng ông lại có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình về
mặt nhân cách, đạo đức và về cả khoa danh nữa. Cho nên ông thường lấy tư cách
của người đứng trên nhìn xuống, vừa đả kích, lại vừa thương hại (LSVHVN,T.IV
A).
Trong ví dụ trên, câu thứ hai và câu thứ ba là hiện dạng còn lại
của câu ghép phụ thuộc tỉnh lược cú thứ nhất. Dựa vào văn cảnh, ta có thể phục
hồi lại dạng đầy đủ của hai câu này như sau :
Câu thứ hai :
Mặc dù đối với đối tượng của mình, Nguyễn Khuyến ít có thái độ hằn
học, mạt sát, nhưng ông lại có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của
mình...
Câu thứ ba :
Vì ông có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình về mặt nhân
cách, đạo đức và cả khoa danh nữa, cho nên ông thường lấy tư cách của người
đứng trên nhìn xuống, vừa đả kích, lại vừa thương hại.
Nhưng nếu viết đầy đủ như vậy thì câu sau sẽ lặp lại câu trước,
trở nên dài dòng, không cần thiết. Vì lẽ đó, người viết đã không hiển ngôn hóa
cú thứ nhất của hai câu, hiện dạng của hai câu chỉ còn cú thứ hai, và L2
(nhưng, cho nên) trở thành phương tiện nối câu.
Khi sửa chữa câu (f) theo cách thứ hai, thực chất là chúng ta đã
vận dụng phép tỉnh lược như vừa trình bày.
2. Câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp.
Khác với câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh, câu sai do vi phạm
quy tắc kết hợp, mặc dù không thiếu các thành phần nòng cốt (thậm chí còn thừa
nữa), nhưng hiện dạng của câu có những ngữ đoạn kết hợp với nhau không đúng quy
tắc ngữ pháp, nên trở thành lỗi sai.
Dựa vào tính chất, đặc điểm của hiện tượng sai, có thể chia loại
lỗi này thành ba kiểu lỗi nhỏ :
2.1. Câu đứt cấu trúc ngữ pháp.
Khi tham gia vào tổ chức nội bộ của câu, nhìn chung, các từ, ngữ
phải đảm bảo mối quan hệ về ngữ pháp (và ngữ nghĩa), dựa trên các quy tắc kết
hợp có sẵn. Mối quan hệ qua lại đó trong tổ chức câu được xác lập bằng trật tự
tuyến tính giữa các từ, ngữ, hay bằng từ công cụ, hai phương thức ngữ pháp cơ
bản của tiếng Việt.
Ðứt cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi sai mà hiện dạng câu có những
ngữ đoạn rời rạc, mối quan hệ về mặt ngữ pháp (và ngữ nghĩa) giữa chúng với các
ngữ đoạn khác không được xác lập rõ ràng, cụ thể.
Xem xét các ví dụ dưới đây :
(a) Bài thơ trên chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể
hiện rất rõ qua các câu hỏi tu từ(BVHS).
(B) Sự bóc lột hết sức tàn bạo dã man của bọn tư bản độc quyền
Pháp cộng với sự bóc lột của địa chủ phong kiến, nhân dân ta vô cùng điêu đứng,
khổ sở(BVHS).
© Sự trói chặt của bóng đêm đáng sợ đó Xuân Diệu thấy cảnh vật
chung quanh không còn tươi thắm, mà nó chỉ một màu đen ảm đạm(BVHS)
(d) Tinh thần chiến đấu hi sinh dũng cảm của những người nghĩa sĩ
họ luôn nêu cao khí thế tiến công, trang bị thô sơ, nghèo nàn(BVHS).
Trong ví dụ (a), mối quan hệ giữa danh ngữ bài thơ trênvới kết cấu
chủ - vị đứng sau nó không được xác lập rõ ràng, cụ thể. Tương tự, trong câu
(B), danh ngữ sự bóc lột hết sức tàn bạo dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp
cộng với sự bóclột của địa chủ phong kiếnkhông có quan hệ rõ ràng, cụ thể với
kết cấu chủ - vị nòng cốt về mặt ngữ pháp, do đó, chúng ta khó xác định được
chức năng cú pháp của danh ngữ này. Trong câu ©, danh ngữ sự trói chặt của bóng
đêm đáng sợ đólà ngữ đoạn bị đứt rời khỏi kết cấu trúc câu, đó là chưa kể đến
lỗi từ ngữ. Câu (d), có hai ngữ đoạn bị đứt rời khỏi kết cấu chủ - vị ở giữa
câu. Ngữ đoạn thứ nhất là danh ngữ tinh thần chiến đấu dũng cảm của những người
nghĩa sĩ , ngữ đoạn thứ hai là trang bị thô sơ, nghèo nàn. Mối quan hệ về mặt
ngữ pháp giữa hai ngữ đoạn này với kết cấu chủ - vị không được xác lập một cách
cụ thể bằng những phương tiện ngữ pháp cần thiết.
Hiện tượng đứt cấu trúc ngữ pháp xuất hiện khá nhiều trong bài
viết của học sinh PTCS. Kiểu lỗi này xuất hiện tương đối ít trong bài viết của
học sinh THPT, và chỉ tập trung trong bài viết của học sinh lớp 10. Trong bài
viết của học sinh lớp 11 và lớp 12, thỉnh thoảng mới bắt gặp kiểu lỗi này. Bài
có sai, thường không quá hai, ba lỗi.
Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học sinh suy nghĩ thiếu
chặt chẽ, không nắm vững kiến thức cơ bản trong việc vận dụng các phương thức
ngữ pháp để sắp xếp các ngữ đoạn, các thành phần câu theo trật tự thích hợp, và
sử dụng chính xác các từ công cụ nhằm liên kết, xác lập mối quan hệ ngữ pháp
qua lại giữa các ngữ đoạn trong câu.
Sửa chữa lỗi đứt cấu trúc ngữ pháp, hướng chung là nốicác ngữ đoạn
bị đứt lại. Trước hết, chúng ta xem xét mối quan hệ tiềm ẩn giữa các ngữ đoạn
trong câu để xác định ngữ đoạn bị đứt có khả năng làm thành phần gì. Trên cơ sở
đó, chúng ta dùng từ công cụ để nốichúng với các thành phần khác, sao cho chức
năng cú pháp của chúng được xác lập rõ ràng, cụ thể. Nếu trật tự của các ngữ
đoạn bị đứt không phù hợp, chúng ta có thể vừa thay đổi trật tự, vừa sử dụng từ
công cụ để nốichúng như trình bày.
Các câu đứt cấu trúc đã dẫn có thể được sửa chữa như sau :
(a) Trong bài thơ trên, chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn
Du thể hiện rất rõ qua các câu hỏi tu từ.
(B) Dưới sự bóc lột hết sức tàn bạo, dã man của bọn tư bản độc
quyền Pháp và bọn địa chủ phong kiến, nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ
sở.
© Trong sự bủa vây của bóng đêm đáng sợ đó, Xuân Diệu thấy cảnh
vật chung quanh không còn tươi thắm nữa, mà tất cả đều khoác lên một màu ảm
đạm.
(d) Với tinh thần chiến đấu, hi sinh dũng cảm, người nghĩa sĩ luôn
nêu cao khí thế tiến công, mặc dù vũ khí, trang bị của họ hết sức thô sơ, lạc
hậu.
Khi sửa chữa câu đứt cấu trúc ngữ pháp, cách thức và mức độ sửa
chữa phải được áp dụng sao cho phù hợp với từng câu sai cụ thể. Ðồng thời,
chúng ta cũng cần chú ý đến mối quan hệ giữa câu được sửa chữa với các câu
chung quanh.
2.2. Câu chập cấu trúc ngữ pháp.
Do sự quy định của quan hệ cú pháp, trong tổ chức nội bộ câu, mỗi
từ, ngữ đều đảm nhiệm một chức năng cú pháp nhất định : hoặc là làm thành phần
câu (chủ ngữ, vị ngữ, các loại thành phần phụ ngoài kết cấu chủ -vị nòng cốt),
hoặc là làm thành tố trong cụm từ (chính tố, phụ tố), xét ở một bậc quan hệ cú
pháp nào đó. Nếu câu có những từ, ngữ đồng thời đảm nhiệm hai chức năng cú
pháp, xét ở một bậc quan hệ cú pháp, thì đó chính là lỗi chập cấu trúc ngữ
pháp.
Nói cách khác, chập cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi sai có biểu hiện
ở cùng một bậc quan hệ cú pháp, từ, ngữ vừa đảm nhiệm chức năng này, xét trong
mối quan hệ với ngữ đoạn trước nó, vừa đảm nhiệm chức năng khác, xét trong mối
quan hệ với ngữ đoạn sau nó.
Xem xét vài ví dụ dưới đây :
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nên
tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ(BVHS).
(B) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn
mày không dám nhìn ai mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình.
(BVHS).
© Trong tác phẩm Tắt đèncũng ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người
nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến.(BVHS).
Trong câu (a), Vũ Trọng Phụng, xét trong mối quan hệ với danh ngữ
một thành công lớn, là định tố biểu thị ý nghĩa sở thuộc. Nhưng xét trong mối
quan hệ với động ngữ đã xây dựng nên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ,Vũ
Trọng Phụng lại có chức năng như chủ ngữ. Ðây chính là hiện tượng chập cấu trúc
ngữ pháp. Trong câu (B) mẹ con người ăn mày là định tố, xét trong mối quan hệ
với danh ngữ nỗi khổ nhục. Nhưng xét trong mối quan hệ với hai động ngữ không
dám nhìn aivà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình, mẹ con người ăn mày lại
có chức năng như chủ ngữ. Như vậy, danh ngữ mẹ con người ăn mày là ngữ đoạn bị chập.
Trong câu ©, tác phẩm Tắt đèn có giá trị như một trạng ngữ, xét trong mối quan
hệ với giới từ trong. Nhưng danh ngữ này lại có chức năng như chủ ngữ, xét
trong mối quan hệ với động ngữ cũng ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người
nông dân Việt Nam..... Danh ngữ tác phẩm Tắt đèn là ngữ đoạn bị chập.
Chập cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi khá phổ biến trong bài viết của
học sinh. Kiểu lỗi này xuất hiện nhiều hơn lỗi đứt cấu trúc ngữ pháp. Có hơn
30% bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát mắc kiểu lỗi này. Bài sai ít
là một, hai lỗi. Bài sai nhiều lên đến bốn, năm lỗi (kiểu lỗi này cũng xuất
hiện rải rác trên sách báo in ấn chính thức).
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng chập cấu trúc ngữ pháp là
do tư duy của học sinh thiếu mạch lạc. Thêm vào đó là sự non yếu về kiến thức
ngữ pháp, cụ thể là những hiểu biết về các thành phần, thành tố trong cấu trúc
câu tiếng Việt và mối quan hệ ràng buộc qua lại giữa chúng về mặt cú
pháp.
Chập cấu trúc ngữ pháp là một trong những nguyên nhân làm cho câu
văn lủng củng, mối quan hệ về mặt ngữ pháp (và ngữ nghĩa) giữa các thành phần,
thành tố nhập nhằng, thiếu phân minh.
Dựa vào chức năng cú pháp của ngữ đoạn bị chập, có thể chia lỗi
chập cấu trúc ngữ pháp thành các kiểu lỗi nhỏ như sau :
Chập trạng ngữ với chủ ngữ :
Ðây là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có giá trị như là trạng
ngữ, xét trong mối quan hệ với giới từ đứng trước, lại vừa có giá trị như là
chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với ngữ động từ hay ngữ tính từ đứng
sau[1].
Ví dụ :
(a) Qua bài thơ Tiếng rucủa Tố hữu đã để lại trong lòng ta một ấn
tượng sâu sắc(BVHS).
(B) Qua thơ văn yêu nước giai đoạn này đã làm nổi bật lên hình ảnh
người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. (BVHS).
© Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã cho ta thấy vẻ đẹp hào
hùng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp (BVHS).
(d) Qua bài thơ Sở kiến hànhđã lên án gay gắt bản chất thối nát
của chế độ phong kiến. (BVHS).
(e) Với bút pháp sắcxảo đã tạo cho người đọc thấy được sự lố lăng
của xã hội đương thời.(BVHS).
Chập trạng ngữ với chủ ngữ là kiểu lỗi phổ biến nhất trong các
kiểu lỗi chập cấu trúc ngữ pháp.
Có ba cách sửa chữa kiểu lỗi sai này :
Cách thứ nhất : Triệt tiêu chức năng trạng ngữ của danh từ /danh
ngữ bị chập bằng cách bỏ giới từ đầu câu, làm cho danh từ /danh ngữ bị chập chỉ
còn giữ chức năng chủ ngữ. Tất nhiên, chúng ta chỉ áp dụng cách này khi nghĩa
của câu cho phép, chẳng hạn như năm câu vừa dẫn :
(a) Bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu đã để lại trong lòng người đọc một
ấn tượng sâu sắc.
(B) Thơ văn yêu nước giai đoạn này đã làm nổi bật lên hình ảnh
người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
© Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũngü đã cho ta thấy vẻ đẹp hào hùng
của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
(d) Bài thơ Sở kiến hành đã lên án gay gắt bản chất thối nát của
chế độ phong kiến.
(e) Bút pháp sắc sảo (của tác giả) đã giúp cho người đọc thấy được
sự lố lăng của xã hội đương thời.
Cách thứ hai : Tách danh ngữ bị chập thành hai thành phần ngữ pháp
khác nhau : trạng ngữ và chủ ngữ, nếu như danh ngữ bị chập có định tố biểu thị
quan hệ sở thuộc và nghĩa của câu cho phép. Thao tác cụ thể là bỏ giới từ của,
thay vào đó bằng dấu phẩy. Chẳng hạn như đối với câu (a), © đã dẫn :
(a) Qua bài thơ Tiếng ru, Tố Hữu đã để lại trong lòng ta một ấn
tượng sâu sắc.
© Qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã cho chúng ta thấy vẻ đẹp hào
hùng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Cách thứ ba : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập
bằng cách đặt dấu phẩy sau nó, và dựa vào văn cảnh, tạo chủ ngữ khác cho câu.
Cách này áp dụng đối với trường hợp danh ngữ bị chập không có định tố biểu thị
ý nghĩa sở thuộc. Chẳng hạn như đối với các câu (B), (d), (e) :
(B) Qua thơ văn yêu nước giai đoạn này, các tác giả đã làm nổi bật
lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
(d) Qua bài thơ Sở kiến hành, Nguyễn Du đã lên án gay gắt bản chất
thối nát của chế độ phong kiến.
(e) Với bút pháp sắc sảo, tác giả (nhà văn) đã giúp cho người đọc
thấy được sự lố lăng của xã hội đương thời.
Chập định tố với chủ ngữ :
Ðây là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có chức năng như định tố,
xét trong mối quan hệ với danh từ / danh ngữ đứng trước, lại vừa có chức năng
như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với động ngữ hay tính ngữ đứng sau.
Ví dụ :
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng đã dựng lên tấn
hài kịch của xã hội thời bấy giờ.(BVHS).
(B) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn
mày không dám nhìn ai mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình.(BVHS).
© Bài thơ là tiếng nói chân tình của tác giả kêu gọi mọi người
phải biết đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. (BVHS).
(d) Cái công việcnuôi già dạy trẻ kia đâu có phải là những công
việc làm đổ mồ hôi sôi nước mắtcủa những người phụ nữ trong ca dao đã phải gánh
chịu bao nhiêu tầng áp bức mà còn phải đã gánh theo chồng lại gánh theo con.
(LSVHVN, T.III)
(e) Trong truyện ngắnChí phèo , Nam Cao đã vạch trần tội ác của
chế độ thực dân nửa phong kiến là thủ phạm đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân
hiền lành, chất phác thành một tên lưu manh mất hết tính người. (BVHS).
(f) Nguyễn Công Hoan không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn
thịt con (dầu có thực trong cuộc sống), bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc
căm ghét lũ thực dân chính là tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp, mà chỉ làm
cho người đọc thấy ghê sợ. (TGVXVNHÐ).
Chập định tố với chủ ngữ là kiểu lỗi tuy không phổ biến bằng chập
trạng ngữ với chủ ngữ, nhưng cũng cần được lưu ý. Bởi vì kiểu lỗi này xuất hiện
rải rác trong nhiều bài viết của học sinh. Bài viết của sinh viên đại học cũng
không hiếm kiểu lỗi sai này . Sách báo in ấn chính thức cũng vậy.
Có ba cách sửa lỗi chập định tố với chủ ngữ, tùy vào từng hiện
tượng sai cụ thể.
Cách thứ nhất : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của danh từ / danh
ngữ bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó và tạo ra chủ ngữ cho động từ, tính
từ hay ngữ tương đương đứng sau bằng cách lặp từ ngữ, dùng từ đồng nghĩa lâm
thời hay dùng đại từ để thay thế. Sửa theo cách này là tách câu sai thành nhiều
cú đẳng lập.
Các câu (a), (B), © có thể sửa chữa theo cách vừa nêu :
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng, ông (nhà văn, tác
giả) đã dựng lên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ.
(B) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn
mày, họ không dám nhìn ai, mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận của
mình.
© Bài thơ là tiếng nói chân thành của tácgiả, nhà thơ kêu gọi mọi
người phải biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
Cách thứ hai : Tiến hành tương tự cách thứ nhất. Nhưng thay vì
dùng dấu phẩy để tách câu sai thành nhiều cú, chúng ta dùng dấu kết thúc câu
thích hợp, tách câu sai thành nhiều câu liên kết.
Các câu (a), (B), ©, (d) có thể sửa chữa theo cách này :
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng. Ông (nhà văn, tác
giả) đã dựng lên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ.
(B) Tác giả cho chúng ta thấy nổi khổ nhục của mẹ con người ăn
mày. Họ không dám nhìn ai, mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận của
mình.
© Bài thơ là tiếng nói chân tình của tác giả. Tác giả (nhà thơ)
kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
(d) Cái công việc nuôi già dạy trẻkia đâu có phải là những công
việc làm đổ mồ hôi sôi nước mắtcủa những người phụ nữ trong ca dao?Họ đã gánh
chịu bao nhiêu tầng áp bức mà còn phảiđã gánh theo chồng lại gánh theo
con.
Cách thứ ba: Áp dụng trong trường hợp sau ngữ đoạn bị chập là động
từ là, có bổ tố đứng sau là danh ngữ. Tiến hành theo cách này, ta loại bỏ động
từ là, thay vào đó bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang hay dấu hai chấm, nhằm triệt
tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập và biến danh ngữ, vốn là bổ tố của
là, thành giải thích ngữ.
Câu (e) và (f) có thể sửa chữ theo cách này :
(e) Trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã vạch trần tội ác của
chế độ thực dân nửa phong kiến, thủ phạm đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân
hiền lành, chất phác thành một tên lưu manh mất hết tính người.
(f) Nguyễn Công Hoan không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn
thịt con (dầu có thực trong cuộc sống), bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc
căm ghét lũ thực dân, tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp, mà chỉ làm cho người
đọc thấy ghê sợ.
Chập bổ tố với chủ ngữ :
Chập bổ tố với chủ ngữ là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có
chức năng như bổ tố đối với động từ, tính từ hay ngữ tương đương đứng trước,
lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với động từ, tính từ hay ngữ tương đương
đứng sau, xét ở cùng một bậc quan hệ cú pháp.
Ví dụ :
(a) Nguyễn Du thông cảm sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày đã
gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị đã không
đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân lương thiện.(BVHS).
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi
bật hơn hết là truyện Chí Phèolà câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc,
tuyệt vọng của một con người không được làm người.(BVHS).
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân, khát vọng
sống mãnh liệt được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng. (BVHS).
(d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ
Hải có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang
dọc giữa chốn giang hồ. (BVHS).
Trong câu (a), danh ngữ mẹ con người ăn mày vừa có giá trị như bổ
tố của thông cảm sâu sắc, lại vừa có giá trị như chủ ngữ đối với động ngữ đã
phải gánh chịu bao đau khổ. Cũng trong câu này, danh ngữ bọn phong kiến thống
trịvừa có giá trị như bổ tố của là, lại vừa có giá trị như chủ ngữ đối với động
ngữ đã không đảm bảo được sống ấm no cho người dân lương thiện.Trong câu (B),
danh ngữ truyện Chí Phèo là ngữ đoạn bị chập : nó vừa có chức năng như bổ tố
của là, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với ngữ đoạn là câu chuyện thương
tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.
Trong câu ©, hai danh ngữ lòng yêu tuổi xuân, khát vọng sống mãnh liệtlà hai
danh ngữ bị chập : chúng vừa có chức năng như bổ tố ngữ đối với là, lại vừa có
chức năng như chủ ngữ đối với động ngữ được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội
vàng.Trong câu (d) , danh ngữ nhân vật Từ Hải vừa có chức năng như bổ tố của
khắc họa đậm nét, lại vừa có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với
các động ngữ có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy
vùng ngang dọc. Như vậy, danh ngữ nhân vật Từ Hảilà ngữ đoạn bị chập.
Trong bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát, hiện tượng chập
bổ tố với chủ ngữ xuất hiện không phổ biến lắm. Tỉ lệ kiểu lỗi này tương đương
với lỗi chập định tố với chủ ngữ.
Có ba cách sửa chữa kiểu lỗi chập bổ tố với chủ ngữ, tùy vào hiện
tượng sai cụ thể.
Cách thư nhất : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập
bằng cách đặt dấu phẩy sau nó và tạo chủ ngữ cho động ngữ đứng sau bằng cách
lặp từ ngữ, dùng từ đồng nghĩa lâm thời hay dùng đại từ thay thế. Sửa như vậy
là tách câu sai thành nhiều cú đẳng lập . Tất cả bốn câu vừa dẫn đều có
thể sửa chữa theo cách này :
(a) Nguyễn Du thông cảm sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày, họ đã
phải gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị, bọn
chúng đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân.
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi
bật hơn hết là truyện Chí Phèo, đó là câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc,
tuyệt vọng của một con người không được làm người.
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng
sống mãnh liệt, tâm trạng ấy được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.
(d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ
Hải, Từ Hải có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng
ngang dọc giữa chốn giang hồ.
Vì sửa theo cách thứ nhất là tách câu ra thành nhiều cú, nên kết
quả thu được thường là những câu dài dòng, luộm thuộm. Do đó, ta nên sửa theo
cách thứ hai.
Cách thứ hai : Tiến hành giống như cách thứ nhất. Nhưng thay vì
dùng dấu phẩy, ta dùng dấu chấm tách câu được sửa ra thành nhiều câu liên
kết.
Các câu (a), (B), © (d) có thể sửa chữa theo cách vừa nêu :
(a) Nguyễn Du đã cảm thông sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày. Họ
đã phải gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị.
Bọn chúng đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân.
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi
bật hơn hết là truyện Chí Phèo. Ðó là câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc,
tuyệt vọng của một con người không được làm người.
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng
sống mãnh liệt. Tâm trạng ấy được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.
(d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ
Hải. Từ Hải có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng
ngang dọc giữa chốn giang hồ.
Cách thứ ba : Áp dụng đối với trường hợp ngữ đoạn bị chập đứng
trước động từ là, và sau nó là danh từ / danh ngữ, làm bổ tố. Tiến hành theo
cách sửa chữa này, ta loại bỏ là, thay thế nó bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang hay
dấu hai chấm, nhằm triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập và biến
danh từ / danh ngữ, vốn làm bổ tố của là, thành giải thích ngữ.
Câu (B) , có thể được sửa chữa theo cách này :
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi
bật hơn hết là truyện Chí Phèo - câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc,
tuyệt vọng của một con người không được làm người.
Cách thứ tư : Nếu cấu trúc và nghĩa của câu cho phép, ta triệt
tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó, động
ngữ đứng sau ngữ đoạn bị chập sẽ trở thành vị ngữ của một cú mà chủ ngữ xem như
không được hiển ngôn hóa - một hiện tượng cô đúc cú pháp (syntactic
condensation).
Các câu (B), © có thể sửa theo cách này :
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi
bật hơn hết là truyện Chí Phèo, là câu chuyện đáng thương về cuộc đời bế tắc,
tuyệt vọng của một con người không được làm người.
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng
sống mãnh liệt, được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.
Về cấu trúc nghĩa, cấu trúc chiều sâu, hai câu trên phải được hiểu
như sau :
Câu (B) :
Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật
hơn hết là truyện Chí Phèo, ì truyện Chí Phèolà câu chuyện thương tâm về cuộc
đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.
Câu © :
Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng
sống mãnh liệt, lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt ấy được thể hiện
nổi bật qua bài thơ Vội vàng.
2.3. Câu rối cấu trúc ngữ pháp.
Rối cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi câu sai ngữ pháp mà hiện dạng
của nó có những ngữ đoạn đan chéo vào nhau một cách rối rắm, sai quy tắc kết
hợp, làm cho quan hệ cú pháp và chức năng cú pháp của chúng lệch lạc, thiếu
phân minh.
Ví dụ :
(a) Ðừng tưởng rằng bàn đá chông chênh là bàn đá kê không vững thì
chỉ đúng là một phần thôi, mà còn là cái khó khăn của cách mạng buổi đầu.
(BVHS).
(B) Lúc bọn thằng Xâm bắt chị đứng trước máy để kêu gọi anh em
trong hang ra hàng, nhưng chị đã không nói gì về hoạt động của đồng đội.
(BVHS).
© Như đôi tay ông, với những ngón to, đầu tù, thô tháp nhưng đấy
là đôi tay vàng. (N.K.T - MÐLNNM).
(d) Nhưng điều đáng quý hơn cả là trong người Từ Hải luôn tiềm
tàng khát vọng cháy bỏng, nhưng quý hơn là cùng với tự do của mình đem đêïn tự
do cho người khác, biết tôn trọng giá trị của người khác, chứng tỏ Từ Hải rất
hiểu tư cách và tính tình của Kiều. (BVHS).
(e) Trong xã hội đối với con người quan hệ giữa cái nết và cái đẹp
đối với người phụ nữ phải có cái nết thật thà hiền lành và cái đẹp xấu xa độc
ác. (BVHS)
(f) Qua bài thơ Sở kiến hànhkhi đọc qua chúng ta nhận thấy có hai
điểm đối lập thể hiện qua hai nhóm ba mẹ con người ăn mày, đói rách, khổ sở,
đối lập với bọn quan lại giàu có, sung sướng, no đủ và phí của, đây chính là
giá trị tố cáo chế độ phong kiến đương thời và lên tiếng kêu thương và bênh vực
cho mẹ con người ăn mày. (BVHS).
(g) Nguyễn Du không những cảm thông cho những số phận của những cô
gái lầu xanh, những người tôi tớ, mà tình thương của tác giả còn là thông cảm
cho những người tha phương cầu thực sống không nhà không cửa, ăn đói mặc rét
phải chịu muôn đắng ngàn cay mà xã hội thối nát dành cho họ như vậy, nhưng tấm
lòng nhân đạo thương người của tác giả đối với những con người tha phương cầu thực
sống cảnh ăn đói mặc rét như vậy mà tác giả ở đây còn tố cáo cái xấu xa kiêu
căng tàn bạo của xã hội phong kiến ăn sung mặc sướng có kẻ hầu người hạ mà làm
ngơ trước nỗi khổ cực của người dân, thản nhiên ngồi mâm cổ. (BVHS).
Có thể chia lỗi rối cấu trúc thành hai kiểu lỗi nhỏ, dựa vào mức
độ rối : rối cấu trúc nhẹ và rối cấu trúc nặng.
Rối cấu trúc nhẹ :
Rối cấu trúc nhẹ là kiểu lỗi câu rối, về cơ bản, có các thành
phần, thành tố tương đối chuẩn mực, chấp nhận được. Nhưng bên cạnh đó, câu lại
có những yếu tố, đặc biệt là các từ công cụ mở đầu các ngữ đoạn, bị kết hợp sai
quy tắc ngữ pháp, tạo thành những nút rối. Các câu (a), (B), ©, thuộc trường
hợp này.
Rối cấu trúc nặng :
Rối cấu trúc nặng là kiểu lỗi câu rối, trong đó, đa số các ngữ
đoạn đều bị kết hợp chồng chéo, rối rắm, sai quy tắc ngữ pháp, do đó, khó mà
xác định một cách rõ ràng, phân minh chức năng cú pháp của chúng. Các câu (d),
(e), (f), (g) thuộc trường hợp này.
Trong bài viết của học sinh THPT, lỗi rối cấu trúc ngữ pháp xuất
hiện không phổ biến lắm. Bài có sai, thường không quá hai, ba lỗi, và đa số
thuộc kiểu lỗi rối nhẹ. Trong bài viết học sinh THCS, lỗi rối cấu trúc ngữ pháp
xuất hiện tương đối phổ biến. Có nhiều bài viết đầy dẫy kiểu lỗi này.
Rối cấu trúc ngữ pháp là một trong những kiểu lỗi ngữ pháp cần
được lưu ý đến nhất. Bởi vì kiểu lỗi ngữ pháp này phản ánh rõ sự yếu kém về
năng lực diễn đạt của học sinh. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi rối cấu
trúc ngữ pháp là sự yếu kém về năng lực tư duy và kiến thức ngữ pháp, cụ thể là
kiến thức về cấu trúc câu, về quan hệ cú pháp và các kiểu quan hệ cú pháp, về
các phương thức và phương tiện ngữ pháp... Thêm vào đó là lối viết theo bản
năng, nghĩa là nghĩ thế nào, viết thế ấy, lắp ghép từ ngữ một cách quàng xiên,
thiên thẹo, thiếu ý thức phân định câu cũng như phân định các thành phần, thành
tố trong tổ chức nội bộ của từng câu... Và kết quả thu được là những chuỗi từ
ngữ hỗn độn, chứ thật sự không phải là câu với ý nghĩa đúng đắn của nó. Các
trường hợp rối nặng vừa dẫn phản ảnh rõ điều đó.
Sửa chữa lỗi rối cấu trúc ngữ pháp, phải tùy vào mức độ rối và
hiện tượng rối cụ thể.
Ðối với câu rối cấu trúc nhẹ :
Như đã nói, trừ một vài nút rối, câu rối cấu trúc nhẹ có những
thành phần, thành tố tương đối chuẩn mực, chấp nhận được. Do đó, khi sửa chữa
câu rối thuộc kiểu này, cách thức chủ yếu là tháo gỡcác nút rối. Cụ thể là điều
chỉnh, thay thế các yếu tố bị kết hợp sai quy tắc, phản ánh sai quan hệ cú
pháp. Nếu câu sai có những ngữ đoạn thiếu chính xác về ý nghĩa hay trật tự, ta
cũng cần phải sửa chữa , thay đổi cách diễn đạt sao cho câu đảm bảo chuẩn mực
về cả hai mặt : cấu trúc và ý nghĩa.
Các câu (a), (B), © có thể được sửa chữa như sau :
(a) Nếu cho rằng (hình ảnh) bàn đá chông chênhlà bàn đá kê không
vững, thì chỉ đúng một phần thôi. Hình ảnh đó còn nói lên tình thế khó khăn của
cách mạng thời kì đầu.
(B) Lúc bọn thằng Xâm bắt chị (Sứ) đứng trước máy để kêu gọi anh
em ra hàng, chị đã dùng chính phương tiện thông tin của chúng động viên anh em
và thông báo tình hình bên ngoài cho anh em trong hang biết.
© Ðôi tay ông, tuy ngón to, đầu tù, thô tháp,nhưng đấy là đôi tay
vàng.
Ðối với câu rối cấu trúc nặng :
Sửa chữa câu rối cấu trúc nặng, trước hết cần xác định lại nội
dung cơ bản mà học sinh muốn biểu đạt. Trên cơ sở đó, xét xem những ngữ đoạn,
những yếu tố nào trong cấu trúc câu bị rối, phản ánh sai quan hệ cú pháp hay
lệch lạc về nội dung biểu đạt. Tiếp theo là tách các ngữ đoạn ra và định hướng
chức năng cú pháp của chúng : Ngữ đoạn nào có thể làm thành phần nòng cốt ? Ngữ
đoạn nào làm thành phần phụ ? Ngữ đoạn nào là cú chính ? Ngữ đoạn nào là cú phụ
? ... Cuối cùng, ta vận dụng các phương thức ngữ pháp sắp xếp, liên kết các ngữ
đoạn lại thành câu chuẩn mực. Khi tổ chức lại câu, cần lưu ý : Các yếu tố phản
ánh sai quan hệ cú pháp, phải thay thế bằng yếu tố khác. Các ngữ đoạn trùng lặp
về nội dung biểu đạt hay có nội dung biểu đạt quá vụng về, không có giá trị
thông tin, phải loại bỏ. Trong trường hợp câu sai có cấu trúc quá dài, có nội
dung phức tạp, ta nên tách ra thành nhiều câu liên kết. Cũng cần lưu ý thêm
rằng, những câu rối cấu trúc, đồng thời có nội dung biểu đạt quá vụng về, ngô
nghê, lệch lạc, chẳng hạn như câu (e) đã dẫn, chúng ta không nhất thiết phải
sửa chữa.
Sau đây, chúng ta thử áp dụng cách sửa chữa vừa nêu đối với các
câu (d), (f) và (g). Câu (d): Dựa vào cấu trúc có sẵn của câu, ta
thấy học sinh muốn thể hiện ba nội dung chính :
- Khát vọng tự do ở Từ Hải, tự do của bản thân mình và tự do của
người khác.
- Ý thức tôn trọng giá trị và nhân phẩm của người khác ở Từ Hải.
- Sự hiểu biết của Từ Hải về tư cách, phẩm chất của Thúy Kiều.
Nhưng để diễn đạt ba nội dung đó, cấu trúc của câu có những ngữ
đoạn rối rắm, chồng chéo lên nhau, và vài từ dùng sai, làm cho các ngữ đoạn
không lô-gích với nhau về ý nghĩa. Cụ thể là :
- Nhưng điều đáng quý hơn cả là trong người Từ Hải / nhưng quý hơn
là cùng với tự do của mình.
Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau về chức năng và phần lớn nội
dung biểu đạt. Phải loại bỏ một trong hai ngữ đoạn.
- biết tôn trọng giá trị của người khác, chứng tỏ Từ Hải rất hiểu
tư cách và tính tình của Kiều.
Ðộng từ chứng tỏlàm cho ngữ đoạn này thiếu lô-gích về nghĩa. Do
đó, có thể loại bỏ nội dung biểu đạt thứ ba, thể hiện bởi động ngữ chứng tỏ Từ
Hải, hay thay bằng nội dung khác.
Câu © có thể được tổ chức lại như sau :
Nhưng điểm nổi bật ở con người Từ Hải là khát vọng tự do cháy
bỏng, tự do của bản thân mình và tự do của người khác, cùng với ý thức tôn
trọng giá trị, nhân phẩm. Và có thể viết thêm một câu, thay cho động ngữ
đã bị loại bỏ :
Chính khát vọng và ý thức ấy đã thúc đẩy Từ Hải ra tay cứu Kiều
thoát khỏi cảnh lầu xanh nhơ nhuốc, đưa Kiều lên địa vị một phu nhân.
Câu (f) : Câu (f) có hai nội dung cơ bản, quan hệ chặt chẽ
với nhau :
- Hai cảnh đời (hình ảnh) trái ngược nhau trong bài thơ Sở kiến
hành: bốn mẹ con người ăn mày đói khổ, rách rưới và bọn quan lại no say, xa
hoa, lãng phí.
- Tiếng nói tố cáo và thái độ đồng cảm, bênh vực của tác giả toát
lên từ hai cảnh đời trái ngược với nhau.
Nhưng cấu trúc câu có nhiều ngữ đoạn rối rắm, chồng chéo lên nhau,
vi phạm quy tắc kết hợp về mặt ngữ pháp. Cụ thể là :
- Qua bài thơ Sở kiến hành / khi đọc qua.
Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau về chức năng cú pháp và nội
dung biểu đạt.
-có hai điểm đối lập.../ đối lập với.
Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau, đó là chưa kể đến một số từ
ngữ dùng chưa hay, thiếu chính xác : điểm, nhóm, no đủ, phí của.
- đây chính là giá trị tố cáo / và lên tiếng kêu thương và bênh
vực họ.
Hai ngữ đoạn này không lô-gích với nhau. Bởi vì đây- đại từ, thay
thế cho hai hình ảnh đối lập - chỉ có thể mang ý nghĩa tố cáo, chớ không thể
lên tiếng kêu thương và bênh vực được.
Câu (f) có thể được tách ra thành các ngữ đoạn với chức năng cú
pháp dự kiến như sau :
- Qua bài thơ Sở Kiến Hành/ khi đọc qua :
Một trong hai ngữ đoạn có thể làm trạng ngữ.
- chúng ta nhận thấy có hai điểm đối lập nhau.
Ngữ đoạn này làm kết cấu chủ - vị nòng cốt thứ nhất, sau khi loại
bỏ yếu tố thừa thãi, chồng chéo lên nhau, và thay thế các từ, ngữ thiếu chính
xác.
- ... thể hiện qua ... no đủ và phí của:
Ngữ đoạn này chuyển thành giải thích ngữ, sau khi loại bỏ các yếu
tố dư thừa, chồng chéo lên nhau và thay thế các từ, ngữ dùng sai.
- đây chính là giá trị tố cáo... cho mẹ con người ăn mày:
Ngữ đoạn này làm kết cấu chủ - vị thứ hai, sau khi chuyển đổi cấu
trúc, thay thế một vài từ, ngữ có nội dung biểu đạt vụng về, thiếu
lô-gích.
Trên cơ sở những điều vừa phân tích, câu (f) có thể được tổ chức
lại thành hai câu liên kết :
Ðọc bài thơ Sở kiến hành, chúng ta nhận thấy có hai cảnh đời (hình
ảnh) trái ngược (đối lập ) với nhau : bốn mẹ con người ăn mày đói khổ, rách
rưới và bọn quan lại no say, xa hoa, lãng phí. Hai cảnh đời đối lập với nhau ấy
có ý nghĩa phê phán gay gắt chế độ phong kiến thối nát, đồng thời qua đó, tác
giả còn bảy tỏ thái độ cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ
trong xã hội.
Câu (g) :
Câu (g) bao gồm ba nội dung cơ bản, có quan hệ chặt chẽ với nhau
:
- Tấm lòng cảm thông của Nguyễn Du đối với thân phận của các cô
gái lầu xanh, những người lao động vất vả, khổ nhọc...
- Tấm lòng cảm thông của Nguyễn Du đối với mẹ con người ăn mày,
sống không nhà cửa...
- Thái độ phê phán của Nguyễn Du đối với chế độ phong kiến thối
nát, bất công và bọn quan lại thống trị sống xa hoa, thản nhiên trước nỗi thống
khổ của nhân dân...
Diễn đạt ba nội dung cơ bản đó, cấu trúc câu văn có nhiều chỗ rối
rắm, chồng chéo lên nhau.
Hiện tượng rối thứ nhất bộc lộ qua mối quan hệ giữa hai ngữ đoạn
:
- không những cảm thông cho những số phận của những cô gái lầu
xanh../ mà tình thương của tác giả còn cảm thông cho...
Hiện tượng rối thứ hai thể hiện qua mối quan hệ giữa :
- những người tha phương cầu thực.../ mà xã hội dành cho họ như
vậy.
Hiện tượng rối thứ ba, rối nặng nhất về cấu trúc, là sự chồng
chéo, trùng lặp về nội dung biểu đạt ở ngữ đoạn :
- nhưng tấm lòng nhân đạo thương người của tác giả đối với những
con người tha phương cầu thực sống cảnh ăn đói mặc rét như vậy mà tác giả ở đây
còn...
Hiện tượng rối thứ tư bộc lộ qua mối quan hệ ngữ nghĩa - lô-gích
giữa các ngữ đoạn : - ...tố cáo cái xấu xa kiêu căng tàn bạo của xã hội
phong kiến / ăn sung mặc sướng có kẻ hầu người hạ mà làm ngơ trước nỗi khổ cực
của nhân dân / thản nhiên ngồi mâm cổ.
Dựa trên ba nội dung cơ bản vừa nêu, câu (g) có thể được tách ra
và tổ chức lại thành một chuỗi câu liên kết như sau : Nguyễn Du không
những cảm thông cho số phận của những cô gái lầu xanh, những người lao động dãi
dầu mưa nắng, mà nhà thơ còn tỏ lòng xót thương vô hạn trước những người ăn
mày, những kẻ không nhà không cửa, ăn đói mặc rét, sống nhờ vào sự bố thí của
người khác, chịu muôn đắng nghìn cay. Xuất phát từ tấm lòng nhân đạo mênh mông
ấy, Nguyễn Du đã vạch trần bản chất thối nát, bất công của chế độ phong kiến
thời bấy giờ. Dưới chế độ ấy, bọn quan lại thống trị sống xa hoa, lãng phí, và
thản nhiên trước những kiếp đời lầm than, tăm tối, bần cùng của nhân dân.
Việc phân loại lỗi câu sai ngữ pháp do vi phạm quy tắc kết hợp
thành nhiều kiểu lỗi như đã trình bày là nhằm mục đích tạo cơ sở thuận lợi cho
việc xem xét, nhận diện và sửa chữa câu sai ngữ pháp. Trong thực tế bài viết
của học sinh, hiện tượng hai, ba kiểu lỗi xuất hiện cùng lúc trong câu văn là
khá phổ biến. Ðối với hiện tượng câu sai nhiều kiểu lỗi phức tạp như vậy, chúng
ta cần từng bước phân tích và phân loại lỗi sai, trên cơ sở đó, vận dụng kết
hợp nhiều cách sửa chữa để tổ chức lại câu sao cho thật phù hợp. Và một lần
nữa, xin lưu ý rằng, khi tiến hành sửa chữa câu sai ngữ pháp, một mặt chúng ta
phải căn cứ vào cấu trúc có sẵn và nội dung biểu đạt của câu ; mặt khác, phải
đặt câu sai trong văn cảnh, nghĩa là phải xem xét câu sai trong mối quan hệ
nhiều mặt với các câu chung quanh. Kết quả sửa chữa câu sai được xem là tối ưu
khi câu đã sửa chữa đảm bảo ba yêu cầu : Thứ nhất, nội dung biểu đạt của nó vừa
chính xác, vừa trung thực với ý đồ biểu đạt của học sinh ; chỉ nên điều chỉnh,
thay đổi, thêm bớt trong trường hợp nội dung biểu đạt của câu quá vụng về hay
lệch lạc, mâu thuẫn. Thứ hai, cấu trúc câu đã sửa chữa phải phù hợp với chuẩn
mực ngữ pháp. Thứ ba, câu đã sửa chữa phải liên kết chặt chẽ với các câu chung
quanh ở cả hai bình diện : nội dung và hình thức./.