Tìm kiếm

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

CÁC LOẠI LỖI NGỮ PHÁP VÀ CÁCH SỬA CHỮA

Ở bậc tổ chức câu, hiện tượng sai ngữ pháp, trước hết có thể quy thành hai loại lỗi lớn : câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh và câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp. Mỗi loại lỗi sai này được chia thành nhiều kiểu lỗi nhỏ, dựa vào đặc điểm, tính chất của hiện tượng sai. 
1. Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh : 
Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh là loại lỗi ngữ pháp có biểu hiện : hiện dạng của câu thiếu một hay một vài thành phần nòng cốt, mà dựa vào văn cảnh, ta không thể phục hồi cấu trúc đầy đủ của nó. 
Loại lỗi này bao gồm nhiều kiểu lỗi nhỏ : 
1.1. Câu sai thiếu chủ ngữ.: 
Câu sai thiếu chủ ngữ là kiểu lỗi câu sai có hiện dạng thiếu thành phần biểu thị đối tượng của thông báo, mà dựa vào văn cảnh, ta không thể xác định và phục hồi lại cấu trúc đầy đủ của nó. 
Trong tổ chức câu bình thường, chủ ngữ là thành phần có chức năng nêu lên đối tượng mà người viết, người nói đề cập đến. Về từ loại, chủ ngữ thường do đại từ, danh từ hay ngữ tương đương đảm nhiệm. Do đó, một câu bị xem là thiếu chủ ngữ khi hiện dạng của nó chỉ có động từ, tính từ, ngữ động từ, ngữ tính từ có giá trị như vị ngữ, hay hiện dạng gồm có vị ngữ và thành phần phụ. 
Ví dụ: 
(a) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan và cướp đi cuộc sống yên lành của người dân. Ðược thể hiện rõ nét qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộcnổi tiếng của Nguyễn Ðình Chiểu(BVHS). 
(B) Qua đoạn thơ trên, Tố Hữu muốn nói đến lực lượng của tập thể, của nhân dân, của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng là vô hạn. Ðấu tranh đánh đổ áp bức, bóc lột, thúc đẩy xã hội tiến lên(BVHS). 
© Bên cạnh lời dặn dò đó, còn chỉ ra cho chúng ta thấy giá trị tinh thần của đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau(BVHS). 
(d) Qua tác phẩm này, tố cáo xã hội bất công(BVHS).
Hiện tượng câu sai thiếu chủ ngữ xuất hiện trong bài viết của học sinh THPT khá nhiều. Trong bài viết của học sinh THCS, loại lỗi này xuất hiện phổ biến hơn. 
Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học sinh chưa nắm vững cách thức tổ chức câu, cụ thể là chưa có ý thức về tính hoàn chỉnh tương đối của câu. 
Thiếu chủ ngữ làm cho câu không hoàn chỉnh về cấu trúc và thông báo. Ðọc những câu này, ta không hiểu được học sinh muốn nói về ai, cái gì, điều gì. 
Ðối với kiểu lỗi sai này, cách sửa chữa chủ yếu là tạo ra chủ ngữ sao cho phù hợp với vị ngữ có sẵn. Tất nhiên, việc tạo ra chủ ngữ một mặt phải dựa vào vị ngữ có sẵn, mặt khác phải xem xét câu trong mối quan hệ với nội dung và cấu trúc của đoạn văn, tức là phải đặt câu trong mối quan hệ nhiều mặt với các câu chung quanh. 
Các câu sai đã dẫn có thể được sửa chữa như sau : 
(a) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan cuộc sống yên bình của nhân dân. Tội ác của bọn chúng cũng như khí phách hiên ngang, bất khuất của nghĩa binh đã được phản ánh sâu sắc qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộcnổi tiếng của Nguyễn Ðình chiểu[1] . 
(b) Qua đoạn thơ trên, Tố Hữu muốn nói đến sức mạnh vô địch của tập thể, của quần chúng, nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Sức mạnh ấy có thể đánh đổ bất cứ thế lực áp bức, bóc lột nào và thúc đẩy xã hội đi lên trên con đường tiến bộ. 
(c) Bên cạnh lời dặn dò đó, nhà thơ (tác giả) còn chỉ ra cho chúng ta thấy rõ giá trị của tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
(d) Qua tác phẩm ấy, tác giả đã lên tiếng tố cáo xã hội áp bức, bất công. 
Cần phải phân biệt câu sai thiếu chủ ngữ với câu tỉnh lược chủ ngữ trong văn bản. Chỉ nên xem hiện tượng khuyết chủ ngữ là câu sai khi căn cứ vào văn cảnh chứa nó, ta không xác định được đối tượng được nói đến là gì, và do đo,ï không thể phục hồi chủ ngữ bằng cách lặp từ vựng, thế đại từ hay thế bằng từ đồng nghĩa. Còn câu tỉnh lược thì dựa vào văn cảnh, ta có thể phục hồi chủ ngữ bằng các cách vừa nêu. 
Ví dụ: 
Họ là những người dân ấp, dân lân, vì mến nghĩamà làm quân chiêu mộ. Là đội quân tự nguyện, tự giác, chiến đấu dũng cảm, không hề run sợ trước súng đạn tối tân của kẻ thù(BVHS). 
Dựa vào câu thứ nhất thứ nhất, ta có thể phục hồi chủ ngữ của câu thứ hai trong ví dụ trên như sau : 
Họ là đội quân tự nguyện, tự giác, chiến đấu dũng cảm... 
Cũng cần phân biệt câu sai thiếu chủ ngữ với kiểu câu mà cấu trúc chuẩn mực của nó không có chủ ngữ. Ðó là câu tồn tại, một kiểu cấu trúc đặc thù trong tiếng Việt. Kiểu câu này có nội dung thông báo sự tồn tại, xuất hiện hay biến mất của sự vật, hiện tượng, tính chất. Về mặt cấu trúc, đặc điểm của kiểu câu này là chỉ có vị ngữ hay trạng ngữ và vị ngữ, trong đó, thành tố trung tâm của vị ngữ là các động từ biểu thị ý nghĩa tồn tại (có, còn, hết...), các động từ dùng với ý nghĩa trạng thái, hay các tính từ có ý nghĩa số lượng (đông, ít, vắng...). Và trạng ngữ, nếu có, là một danh ngữ hay giới ngữ, có nội dung biểu thị phạm vi không gian, thời gian. 
Ví dụ: 
(a) Bên cạnh chị Sứ, còn có biết bao người phụ nữ Việt Nam anh hùng khác(BVHS). 
(b) Có người rất sớm đã tìm được hướng đi đúng cho đời mình(NLPBCL, T.III). 
(c)  Trong cuộc kháng chiến cứu nước, có những chiến sĩ lao mình lấp lỗ châu mai để cho đơn vị mình tiến lên (NTG - VVHVN). 
(d) Bên đường, đứng chơ vơ một ngôi miếu cổ đen rêu(N.Ð.T). 
1.2. Câu sai thiếu vị ngữ : 
Câu sai thiếu vị ngữ là kiểu câu sai có hiện dạng thiếu thành phần biểu thị nội dung thuyết minh mà dựa vào văn cảnh, ta không thể xác định và khôi phục lại cấu trúc đầy đủ của nó. 
Trong tổ chức nội bộ câu, vị ngữ là thành phần nêu lên nội dung thuyết minh về đối tượng được nói đến. Nội dung thuyết minh có thể là hành động, tính chất, trạng thái ... của đối tượng. Về từ loại, vị ngữ thường do động từ, tính từ hay các ngữ tương đương đảm nhiệm. Như vậy, câu sai thiếu vị ngữ là kiểu câu sai mà hiện dạng của nó có thể thuộc ba trường hợp sau : 
(1) Danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ). 
(2) Danh từ / danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ), giới ngữ (có giá trị như trạng ngữ). 
(3) Danh từ / danh ngữ (có giá trị như chủ ngữ), danh ngữ (có giá trị như giải thích ngữ). 
Ví dụ: 
(a) Tâm ngửng lên nhìn nét mặt hiền từ của bà Tư, rồi lại quay đi, hơi e thẹn. Vì nàng có tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm thường thấy người ấy ra hàng Tâm mua kim chỉ(T.L. - GÐM). 
(B) Sự xả thân vì đại nghĩa để chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc(BVHS). 
© Xuân Diệu, một con người yêu đời, thiết tha với cuộc sống(BVHS). 
(d) Việt Nam, đất nước của những con người anh hùng, của những bài ca bất diệt, những điệu hát câu hò thắm đượm tình quê(BVHS). 
(e) Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu làng xóm, quê hương tha thiết, với tinh thần xả thân vì đại nghĩa(BVHS). 
Trong ví dụ (a), hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe chỉ là một danh ngữ, chưa đủ tư cách là câu. Bởi lẽ, ta không thể hiểu được hình ảnh người con trai ấy như thế nào, ra sao. Câu (B) cũng vậy : mới chỉ là một danh ngữ. Câu © gồm một bút danh (Xuân Diệu), có giá trị như chủ ngữ, và một danh ngữ, có giá trị như giải thích ngữ. Ðọc câu này, ta không rõ Xuân Diệu như thế nào, ra sao. Câu (d) cũng tương tự như ví dụ © : một danh từ riêng (Việt Nam) và một danh ngữ có giá trị như giải thích ngữ. Ví dụ (e) gồm có một danh ngữ (Người nghĩa sĩ Cần Giuộc) và hai giới ngữ, có giá trị như hai trạng ngữ chỉ cách thức. Tất cả các trường hợp nêu trên đều chưa phải là câu, bởi vì chúng đều không có thành phần nêu lên nội dung thuyết minh về đối tượng được đề cập đến. 
Hiện tượng câu sai thiếu vị ngữ xuất hiện khá nhiều trong bài làm của học sinh, nhiều hơn kiểu câu sai thiếu chủ ngữ, nhất là kiểu có hiện dạng giống như trường hợp (2), (3). 
Thiếu vị ngữ tất nhiên làm cho câu không hoàn chỉnh về mặt cấu trúc và thông báo. Ðọc những câu sai kiểu này, ta không rõ đối tượng được nói đến như thế nào, ra sao. 
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến câu sai thiếu vị ngữ là do học sinh nhận thức mơ hồ, thiếu chính xác về tính hoàn chỉnh tương đối của câu, hay do học sinh nhầm lẫn các danh ngữ, giới ngữ (có giá trị như giải thích ngữ, trạng ngữ đứng sau chủ ngữ ) với vị ngữ, từ đó, tưởng rằng câu đã hoàn chỉnh. 
Về cách sửa chữa kiểu lỗi sai này, nhìn chung có hai hướng : Thứ nhất là chuyển đổi cấu trúc có sẵn thành câu có chủ - vị hoàn chỉnh. Thứ hai là tạo thêm vị ngữ sao cho phù hợp với cấu trúc có sẵn. Chọn cách sửa chữa nào là tùy vào câu sai cụ thể. 
Các câu sai vừa dẫn có thể sửa chữa như sau : 
Câu (a), sửa theo cách thứ hai : ... Vì nàng có tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe đang ám ảnh trong tâm trí của nàng...[1] .
Câu (B), sửa theo hai cách : Vì đại nghĩa, nghĩa binh đã xả thân chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.  Hay: Tinh thần xả thân vì độc lập, tự do của dân tộc đã tạo nên nét đẹp hùng tráng ở người nghĩa binh nông dân. 
Câu ©, sửa theo cách thứ nhất :   Xuân Diệu là một con người yêu đời, thiết tha với cuộc sống. 
Câu (d), sửa theo cách thứ nhất : Việt Nam là đất nước của những con người anh hùng, của những bài ca bất diệt và những điệu hát, câu hò thắúm đượm tình quê. 
Câu (e), sửa theo hai cách : Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu mến làng xóm, quê hương tha thiết, đã xả thân quên mình vì đại nghĩa. Hay :  Người nghĩa sĩ Cần Giuộc, với tấm lòng yêu mến làng xóm, quê hương tha thiết, với tinh thần xả thân vì đại nghĩa, đã chiến đấu quên mình khi đối mặt với quân thù. 
Trừ câu (a), hai cách sửa chữa mà chúng tôi vừa áp dụng đối với các câu sai(B), ©, (d) và (e) mới chỉ là hai hướng sửa chữa chung đối với kiểu lỗi sai này. Bởi vì, sửa chữa như vậy vẫn tách rời câu sai với văn cảnh chứa chúng. Do đó, trước mỗi câu sai thiếu vị ngữ, ta áp dụng cách sửa chữa nào và sửa chữa như thế nào, điều đó cần phải được xem xét trong mối quan hệ về ngữ nghĩa - lô-gích với các câu lân cận trong đoạn văn. 
Cũng cần lưu ý thêm, trước hiện tượng câu mà hiện dạng của nó chỉ là một danh ngữ, chúng ta cần phải cân nhắc, phân biệt giữa một bên là câu sai (như các câu (a), (B)) và một bên là kết quả của hiện tượng tỉnh lược (tỉnh lược chủ ngữ và động từ trung tâm của vị ngữ), làm cho hiện dạng của câuchỉ còn là một ngữ, có giá trị giải thích, thuyết minh cho câu trước. 
Ví dụ: 
(a) Văn học thời kì này đã phản ánh được tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Tinh thần chiến đấu, hy sinh dũng cảm của những người chiến sĩ ở ngoài mặt trận, của những người mẹ, người vợ ở hậu phương(BVHS). 
(B) Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc ấy, ánh sáng vẫn ngời lên. Aïnh sáng của lòng thương người và yêu đời vô hạn (NL PBCL, T.III ). 
1.3. Câu thiếu kết cấu chủ - vị noöng cốt. 
Câu thiếu chủ - vị nòng cốt là kiểu lỗi ngữ pháp mà hiện dạng của câu chỉ là một hay vài thành phần phụ ngoài nòng cốt, và dựa vào văn cảnh, ta không thể phục hồi lại cấu trúc đầy đủ của nó.
Câu thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt thường rơi vào câu đơn, và hiện dạng của kiểu lỗi câu sai này có thể quy về hai biểu hiện chính : 
(1) Giới ngữ / danh ngữ (có chức năng như trạng ngữ) 
(2) Giới ngữ / danh ngữ (có chức năng như trạng ngữ), danh ngữ (có chức năng như giải thích ngữ). 
Ví dụ : 
(a) Trước khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, mở đầu cho một trăm năm đô hộ(BVHS). 
(B) Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với tinh thần đoàn kết một lòng chống ngoại xâm của nghĩa quân(BVHS). 
© Ðể làm nổi bật lên hình ảnh cao quý và đẹp đẻ của người Nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người chiến sĩ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc. (BVHS). 
(d) Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng đã cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi liều ! (N.K.T - MÐLNNM). 
(e) Ở phòng khách và nơi nghỉ ngơi, được trang trí những bức tranh lớn, vẽ trực tiếp vào tường hoặc những ô vải rộng. Phần nhiều mô tả cảnh mùa thu của những cánh rừng nhiệt đới(TNH 1993). 
Hiện dạng của câu (a) là một giới ngữ có chứa tiểu cú. Giới ngữ này chỉ có giá trị là một trạng ngữ. Hiện dạng của câu (B) chỉ gồm hai giới ngữ, có giá trị như hai trạng ngữ. Hiện dạng của câu © gồm một giới ngữ, có chức năng như trạng ngữ , và một danh ngữ có giá trị như giải thích ngữ. Hiện dạng của câu (d) gồm một tổ hợp, có giá trị như chuyển ngữ (thành phần phụ chuyển tiếp), và một danh ngữ, có giá trị như trạng ngữ. Hiện dạng của câu thứ nhất trong ví dụ (e) gồm một giới ngữ, có giá trị như trạng ngữ, và hai động ngữ, có giá trị như hai giải thích ngữ liên hoàn. Tất cả các câu văn trên đều không có kết cấu chủ - vị nòng cốt, kết cấu chủ vị ở bậc câu. 
Câu thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt xuất hiện khá phổ biến trong bài viết của học sinh, nhất là sai theo dạng (2) (kiểu lỗi này cũng xuất hiện không ít trên sách báo in ấn chính thức). 
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi sai này là do học sinh không nắm vững kiến thức ngữ pháp, đặc biệt là về tính hoàn chỉnh của câu, dẫn đến sự lẫn lộn giữa các thành phần nòng cốt với các loại thành phần phụ ngoài nòng cốt. Cũng có trường hợp do sử dụng dấu chấm thiếu chính xác, học sinh mắc phải kiểu lỗi này. 
Ví dụ : 
(f) Một lần, khi nghe bà Nghị gọi con gái là cái hai. Hắn đã cau mày trách vợ : Sao bà cứ gọi bằng lối xách mé như vậy ? Tôi đã dặn bà phải gọi nó bằng mợ...(BVHS). 
Trong câu trên, vì học sinh sử dụng sai dấu chấm nên đã tách hai danh ngữ có giá trị như hai trạng ngữ khỏi kết cấu chủ - vị nòng cốt, làm cho chúng trở thành câu sai. 
Ðối với lỗi kiểu sai này, nhìn chung có hai cách sửa chữa : tạo thêm kết câu chủ - vị dựa trên cấu trúc có sẵn hay chuyển đổi cấu trúc có sẵn của câu sai thành câu hoàn chỉnh. 
Dưới đây là các câu sai đã được sửa chữa : 
(a) Trước khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, mở đầu một trăm năm đô hộ, người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là những người nông dân chân lấm tay bùn, quanh năm chỉ biết côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó. 
(B) Với tinh thần đoàn kết một lòng, nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, xem thường mọi thứ vũ khí tối tân của giặc. 
© Ðể làm nổi bật những phẩm chất cao đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người chiến sĩ - nông dân đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, Nguyễn Ðình Chiểu đã khắc họa đậm nét tư thế hiên ngang của họ khi đối mặt với kẻ thù. 
(d) Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi liều, cậu đã không dám nghe theo / đã chối từ một cách hèn nhát. 
(e) Phòng khách và nơi nghỉ ngơi được trang trí bằng những bức tranh lớn, vẽ trực tiếp vào tường hoặc những ô vải rộng ... 
Câu (a) được sửa chữa theo cách tạo thêm kết cấu chủ - vị nòng cốt dựa trên cấu trúc có sẵn của câu sai. Câu (B) được sửa chữa theo cách chuyển đổi cấu trúc của câu sai thành câu đúng, có bổ sung thêm vị ngữ thứ hai. Câu © được sửa theo cách tạo thêm kết cấu chủ - vị nòng cốt. Câu (d) cũng được sửa theo cách tương tự. Câu (e) được sửa theo cách chuyển đổi cấu trúc có sẵn thành câu đúng. 
Cũng như đối với kiểu câu sai thiếu chủ ngữ và câu sai thiếu vị ngữ, khi sửa chữa câu sai thiếu kết cấu chủ - vị nòng cốt, chọn lựa cách sửa chữa nào là phải tùy vào câu sai cụ thể. Và khi tiến hành sửa chữa, nhất thiết phải xem xét mối quan hệ về ngữ nghĩa - lô-gích giữa câu sai với các câu lân cận trong đoạn văn để đảm bảo sự mạch lạc giữa các câu. 
Riêng câu (f), chỉ cần thay dấu chấm băng dấu phẩy, ta sẽ có câu đúng : 
Một lần, khi nghe bà Nghị gọi con gái là cái Hai, hắn đã cau mày trách vợ ... 
1.4. Câu ghép phụ thuộc thiếu cú. 
Câu ghép phụ thuộc (qua lại) là loại câu ghép có hai cú (hai kết cấu chủ - vị nòng cốt) kết hợp với nhau theo quan hệ phụ thuộc. Ðiều đó có nghĩa là, trong loại câu ghép này , hai cú ràng buộc, nương dựa lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Ðặc điểm đó cũng quy định, ở dạng chuẩn, loại câu ghép này phải có hai cú, có hiện dạng đầy đủ hay không đầy đủ, không kể thành phần phụ ngoài nòng cốt. 
Trong câu ghép phụ thuộc, hai cú thường kết hợp với nhau bằng cặp liên từ hô ứng, hay một số cặp từ loại khác, lâm thời có chức năng liên kết hai cú. Nếu gọi L1 là liên từ thứ nhất , L2 là liên từ thứ hai, ta có mô hình cấu trúc tiêu biểu của câu ghép phụ thuộc ở dạng đầy đủ như sau : 
L1C1 - V1, L2 C2 - V2. 
Câu ghép phụ thuộc thiếu cú là kiểu lỗi sai mà hiện dạng của câu chỉ có cú thứ nhất : L1C1 - V1, hoàn toàn thiếu cú thứ hai, hay cú thứ hai chỉ có thành phần phụ ngoài noöng cốt. 
Ví dụ : 
(a) Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, hèn nhát. Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù , và hết lòng ca ngợi người nông dân dám quên mình vì nghĩa lớn(BVHS). 
(B) Mặc dù chị Sứ bị giặc bắt, bị chúng hành hạ tra tấn dã man. Chị đã dùng phương tiện thông tin của giặc để báo cho anh em, đồng chí trong hang biết : Các đồng chí đừng nghe tụi nó nói láo, tôi không đầu hàng đâu... (BVHS). 
© Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Dù tâm hồn ông có lúc chán nản, hoài nghi, cô đơn. Ông đã có những đóng góp lớn cho nền thi ca Việt Nam giai đoạn bấy giờ(BVHS). 
(d) Còn về bác Phúc, nếu bác có khuyết điểm dạo làm chủ nhiệm trước đây, mà chắc là có thôi !(N.K.T - MÐLNNM).
Trong ví dụ (a), câu thứ nhất chỉ gồm có trạng ngữ và một cú nêu lên nguyên nhân. Câu này chỉ có một cú. Câu thứ nhất trong ví dụ (B) và câu thứ hai trong ví dụ © cũng chỉ có một cú, nêu lên điều kiện cực đoan. Trong ví dụ (d), cấu trúc câu gồm có một tổ hợp từ có giá trị chuyển tiếp (Còn về bác Phúc), một kết cấu chủ - vị nòng cốt nêu lên điều kiện, và một ngữ đoạn có giá trị như một chú thích ngữ (mà chắc là có thôi !). 
Cũng có trường hợp hiện dạng của câu đầy đủ hai cú ; nhưng do học sinh dùng sai dấu chấm, hai cú bị tách rời, trở thành câu sai : 
(e) Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái. Nhưng vì ông không thể giải thích nỗi cuộc đời và không biết làm thế nào để thay đổi nó. Cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc(BVHS). 
Câu ghép phụ thuộc thiếu cú xuất hiện khá nhiều trong bài làm của học sinh. Trong bài làm của sinh viên đại học, kiểu lỗi này vẫn xuất hiện rải rác. (Kiểu lỗi này cũng không hiếm trên sách báo in ấn chính thức, kể cả tác phẩm của các nhà văn chuyên nghiệp như chúng tôi đã dẫn ra). 
Ðối với câu ghép phụ thuộc thiếu cú, hướng sửa chữa chung là tạo thêm cú thứ hai (L2 C2 - V2) sao cho cú này tương hợp về ngữ nghĩa, lô-gích với cú thứ nhất đã có. Tất nhiên, khi sửa chữa từng câu cụ thể, một ặmt ta phải dựa vào cấu trúc và nội dung biểu đã của cú đã có ; mặt khác, nhất thiết phải xem xét đến mối quan hệ giữa câu được sửa chữa với các câu chung quanh. Và nếu thấy cần, chúng ta còn phải sửa chữa nhỏ những câu chung quanh như thêm bớt, thay đổi từ ngữ, để đảm bảo sự liên kết giữa các câu. 
Các câu (a), (B), ©, (d) có thể sửa chữa như sau : 
(a) Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì nhu nhược, hèn nhát, nên triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng, kiï hòa ước với giặc. Trong tình hình đó, Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù và hết lòng ca ngợi những người nông dân dám quên mình vì nghĩa lớn. Hay : Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vì triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, hèn nhát, nên đã đầu hàng, kí hòa ước với giặc. Trong tình hình đó, Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng ngòi bút sắc bén của mình làm vũ khí đấu tranh... 
Lưu ý : Hai câu trên đều được sửa chữa bằng cách tạo thêm cú thứ hai (và tạo thêm trạng ngữ cho câu tiếp theo để đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các câu). Chỗ khác nhau là : trong câu sửa chữa thứ nhất, chủ ngữ của cú thứ nhất bị tỉnh lược ; còn trong câu sửa chữa thứ hai, chủ ngữ của cú thứ hai bị tỉnh lược. 
(B) Mặc dù chị Sứ bị giặc bắt , bị chúng tra tấn, hành hạ dã man, nhưng chị không hề khuất phục. Trái lại, chị còn dùng phương tiện thông tin của chúng để báo cho đồng chí, anh em trong hang biết : Các đồng chí... 
© Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong trào lưu thơ ca lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Dù có lúc ông cảm thấy bi quan, hoài nghi, cô đơn, nhưng bản chất tâm hồn nhà thơ là yêu đời, thiết tha với cuộc sống... 
(d) Còn về bác Phúc, nếu bác có khuyết điểm dạo làm chủ nhiệm, mà chắc là có thôi, thì bác nên thành thật nhìn nhận. 
Riêng đối với trường hợp sai do học sinh chấm câu sai, như câu (e), thì sửa chữa bằng cách thay dấu chấm bằng dấu phẩy để ghép hai cú lại thành một câu hoàn chỉnh : 
(e) Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái. Nhưng vì ông không thể giải thích nổi cuộc đời và không biết làm thế nào để thay đổi nó, cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc. 
Cũng có thể sửa câu này theo cách khác : bỏ L1 (vì) trong cú thứ nhất, giữ nguyên dấu chấm và cú thứ hai. Sửa như vậy tức là ta biến cú thứ nhất thành câu đơn, còn cú thứ hai trở thành câu ghép qua lại bị tỉnh lược cú thứ nhất, hiện dạng chỉ còn cú thứ hai, và L2 (cho nên) trở thành phương tiện liên kết câu (phương tiện nối) : 
Nguyễn Du thấy rõ xã hội phong kiến đầy dẫy bất công, oan trái. Nhưng ông không thể giải thích nổi cuộc đời và không biết làm thế nào để thay đổi nó. Cho nên ông không tránh khỏi buồn phiền, bế tắc. 
Ở đây, cũng cần phân biệt câu ghép phụ thuộc thiếu cú, một kiểu lỗi ngữ pháp, với câu ghép phụ thuộc có hiện dạng một cú, kết quả của việc tỉnh lược câu trong văn bản, một biến thể cấu trúc của câu ghép phụ thuộc, vẫn được xem là chuẩn mực. Như đã trình bày, cấu trúc của câu ghép phụ thuộc thiếu cú chỉ có cú thứ nhất (L1C1-V1). Trong khi đó, hiện dạng của câu ghép phụ thuộc tỉnh lược lại chỉ có cú thứ hai (L2C2-V2 ), cú thứ nhất xem như đã lược bỏ. 
Ví dụ : 
Ðối với đối tượng của mình, nói chung Nguyễn Khuyến ít có thái độ hằn học, mạt sát. Nhưng ông lại có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình về mặt nhân cách, đạo đức và về cả khoa danh nữa. Cho nên ông thường lấy tư cách của người đứng trên nhìn xuống, vừa đả kích, lại vừa thương hại (LSVHVN,T.IV A). 
Trong ví dụ trên, câu thứ hai và câu thứ ba là hiện dạng còn lại của câu ghép phụ thuộc tỉnh lược cú thứ nhất. Dựa vào văn cảnh, ta có thể phục hồi lại dạng đầy đủ của hai câu này như sau : 
Câu thứ hai : 
Mặc dù đối với đối tượng của mình, Nguyễn Khuyến ít có thái độ hằn học, mạt sát, nhưng ông lại có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình... 
Câu thứ ba : 
Vì ông có ý thức rất rõ về cái thế hơn hẳn của mình về mặt nhân cách, đạo đức và cả khoa danh nữa, cho nên ông thường lấy tư cách của người đứng trên nhìn xuống, vừa đả kích, lại vừa thương hại. 
Nhưng nếu viết đầy đủ như vậy thì câu sau sẽ lặp lại câu trước, trở nên dài dòng, không cần thiết. Vì lẽ đó, người viết đã không hiển ngôn hóa cú thứ nhất của hai câu, hiện dạng của hai câu chỉ còn cú thứ hai, và L2 (nhưng, cho nên) trở thành phương tiện nối câu. 
Khi sửa chữa câu (f) theo cách thứ hai, thực chất là chúng ta đã vận dụng phép tỉnh lược như vừa trình bày.
2. Câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp. 
Khác với câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh, câu sai do vi phạm quy tắc kết hợp, mặc dù không thiếu các thành phần nòng cốt (thậm chí còn thừa nữa), nhưng hiện dạng của câu có những ngữ đoạn kết hợp với nhau không đúng quy tắc ngữ pháp, nên trở thành lỗi sai. 
Dựa vào tính chất, đặc điểm của hiện tượng sai, có thể chia loại lỗi này thành ba kiểu lỗi nhỏ : 
2.1. Câu đứt cấu trúc ngữ pháp. 
Khi tham gia vào tổ chức nội bộ của câu, nhìn chung, các từ, ngữ phải đảm bảo mối quan hệ về ngữ pháp (và ngữ nghĩa), dựa trên các quy tắc kết hợp có sẵn. Mối quan hệ qua lại đó trong tổ chức câu được xác lập bằng trật tự tuyến tính giữa các từ, ngữ, hay bằng từ công cụ, hai phương thức ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt. 
Ðứt cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi sai mà hiện dạng câu có những ngữ đoạn rời rạc, mối quan hệ về mặt ngữ pháp (và ngữ nghĩa) giữa chúng với các ngữ đoạn khác không được xác lập rõ ràng, cụ thể. 
Xem xét các ví dụ dưới đây : 
(a) Bài thơ trên chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ qua các câu hỏi tu từ(BVHS). 
(B) Sự bóc lột hết sức tàn bạo dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp cộng với sự bóc lột của địa chủ phong kiến, nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ sở(BVHS). 
© Sự trói chặt của bóng đêm đáng sợ đó Xuân Diệu thấy cảnh vật chung quanh không còn tươi thắm, mà nó chỉ một màu đen ảm đạm(BVHS) 
(d) Tinh thần chiến đấu hi sinh dũng cảm của những người nghĩa sĩ họ luôn nêu cao khí thế tiến công, trang bị thô sơ, nghèo nàn(BVHS). 
Trong ví dụ (a), mối quan hệ giữa danh ngữ bài thơ trênvới kết cấu chủ - vị đứng sau nó không được xác lập rõ ràng, cụ thể. Tương tự, trong câu (B), danh ngữ sự bóc lột hết sức tàn bạo dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp cộng với sự bóclột của địa chủ phong kiếnkhông có quan hệ rõ ràng, cụ thể với kết cấu chủ - vị nòng cốt về mặt ngữ pháp, do đó, chúng ta khó xác định được chức năng cú pháp của danh ngữ này. Trong câu ©, danh ngữ sự trói chặt của bóng đêm đáng sợ đólà ngữ đoạn bị đứt rời khỏi kết cấu trúc câu, đó là chưa kể đến lỗi từ ngữ. Câu (d), có hai ngữ đoạn bị đứt rời khỏi kết cấu chủ - vị ở giữa câu. Ngữ đoạn thứ nhất là danh ngữ tinh thần chiến đấu dũng cảm của những người nghĩa sĩ , ngữ đoạn thứ hai là trang bị thô sơ, nghèo nàn. Mối quan hệ về mặt ngữ pháp giữa hai ngữ đoạn này với kết cấu chủ - vị không được xác lập một cách cụ thể bằng những phương tiện ngữ pháp cần thiết. 
Hiện tượng đứt cấu trúc ngữ pháp xuất hiện khá nhiều trong bài viết của học sinh PTCS. Kiểu lỗi này xuất hiện tương đối ít trong bài viết của học sinh THPT, và chỉ tập trung trong bài viết của học sinh lớp 10. Trong bài viết của học sinh lớp 11 và lớp 12, thỉnh thoảng mới bắt gặp kiểu lỗi này. Bài có sai, thường không quá hai, ba lỗi. 
Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học sinh suy nghĩ thiếu chặt chẽ, không nắm vững kiến thức cơ bản trong việc vận dụng các phương thức ngữ pháp để sắp xếp các ngữ đoạn, các thành phần câu theo trật tự thích hợp, và sử dụng chính xác các từ công cụ nhằm liên kết, xác lập mối quan hệ ngữ pháp qua lại giữa các ngữ đoạn trong câu. 
Sửa chữa lỗi đứt cấu trúc ngữ pháp, hướng chung là nốicác ngữ đoạn bị đứt lại. Trước hết, chúng ta xem xét mối quan hệ tiềm ẩn giữa các ngữ đoạn trong câu để xác định ngữ đoạn bị đứt có khả năng làm thành phần gì. Trên cơ sở đó, chúng ta dùng từ công cụ để nốichúng với các thành phần khác, sao cho chức năng cú pháp của chúng được xác lập rõ ràng, cụ thể. Nếu trật tự của các ngữ đoạn bị đứt không phù hợp, chúng ta có thể vừa thay đổi trật tự, vừa sử dụng từ công cụ để nốichúng như trình bày. 
Các câu đứt cấu trúc đã dẫn có thể được sửa chữa như sau : 
(a) Trong bài thơ trên, chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ qua các câu hỏi tu từ. 
(B) Dưới sự bóc lột hết sức tàn bạo, dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp và bọn địa chủ phong kiến, nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ sở. 
© Trong sự bủa vây của bóng đêm đáng sợ đó, Xuân Diệu thấy cảnh vật chung quanh không còn tươi thắm nữa, mà tất cả đều khoác lên một màu ảm đạm. 
(d) Với tinh thần chiến đấu, hi sinh dũng cảm, người nghĩa sĩ luôn nêu cao khí thế tiến công, mặc dù vũ khí, trang bị của họ hết sức thô sơ, lạc hậu. 
Khi sửa chữa câu đứt cấu trúc ngữ pháp, cách thức và mức độ sửa chữa phải được áp dụng sao cho phù hợp với từng câu sai cụ thể. Ðồng thời, chúng ta cũng cần chú ý đến mối quan hệ giữa câu được sửa chữa với các câu chung quanh. 
2.2. Câu chập cấu trúc ngữ pháp. 
Do sự quy định của quan hệ cú pháp, trong tổ chức nội bộ câu, mỗi từ, ngữ đều đảm nhiệm một chức năng cú pháp nhất định : hoặc là làm thành phần câu (chủ ngữ, vị ngữ, các loại thành phần phụ ngoài kết cấu chủ -vị nòng cốt), hoặc là làm thành tố trong cụm từ (chính tố, phụ tố), xét ở một bậc quan hệ cú pháp nào đó. Nếu câu có những từ, ngữ đồng thời đảm nhiệm hai chức năng cú pháp, xét ở một bậc quan hệ cú pháp, thì đó chính là lỗi chập cấu trúc ngữ pháp.
Nói cách khác, chập cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi sai có biểu hiện ở cùng một bậc quan hệ cú pháp, từ, ngữ vừa đảm nhiệm chức năng này, xét trong mối quan hệ với ngữ đoạn trước nó, vừa đảm nhiệm chức năng khác, xét trong mối quan hệ với ngữ đoạn sau nó. 
Xem xét vài ví dụ dưới đây :
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ(BVHS). 
(B) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn mày không dám nhìn ai mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình. (BVHS). 
© Trong tác phẩm Tắt đèncũng ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến.(BVHS). 
Trong câu (a), Vũ Trọng Phụng, xét trong mối quan hệ với danh ngữ một thành công lớn, là định tố biểu thị ý nghĩa sở thuộc. Nhưng xét trong mối quan hệ với động ngữ đã xây dựng nên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ,Vũ Trọng Phụng lại có chức năng như chủ ngữ. Ðây chính là hiện tượng chập cấu trúc ngữ pháp. Trong câu (B) mẹ con người ăn mày là định tố, xét trong mối quan hệ với danh ngữ nỗi khổ nhục. Nhưng xét trong mối quan hệ với hai động ngữ không dám nhìn aivà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình, mẹ con người ăn mày lại có chức năng như chủ ngữ. Như vậy, danh ngữ mẹ con người ăn mày là ngữ đoạn bị chập. Trong câu ©, tác phẩm Tắt đèn có giá trị như một trạng ngữ, xét trong mối quan hệ với giới từ trong. Nhưng danh ngữ này lại có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với động ngữ cũng ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam..... Danh ngữ tác phẩm Tắt đèn là ngữ đoạn bị chập. 
Chập cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi khá phổ biến trong bài viết của học sinh. Kiểu lỗi này xuất hiện nhiều hơn lỗi đứt cấu trúc ngữ pháp. Có hơn 30% bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát mắc kiểu lỗi này. Bài sai ít là một, hai lỗi. Bài sai nhiều lên đến bốn, năm lỗi (kiểu lỗi này cũng xuất hiện rải rác trên sách báo in ấn chính thức). 
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng chập cấu trúc ngữ pháp là do tư duy của học sinh thiếu mạch lạc. Thêm vào đó là sự non yếu về kiến thức ngữ pháp, cụ thể là những hiểu biết về các thành phần, thành tố trong cấu trúc câu tiếng Việt và mối quan hệ ràng buộc qua lại giữa chúng về mặt cú pháp. 
Chập cấu trúc ngữ pháp là một trong những nguyên nhân làm cho câu văn lủng củng, mối quan hệ về mặt ngữ pháp (và ngữ nghĩa) giữa các thành phần, thành tố nhập nhằng, thiếu phân minh. 
Dựa vào chức năng cú pháp của ngữ đoạn bị chập, có thể chia lỗi chập cấu trúc ngữ pháp thành các kiểu lỗi nhỏ như sau : 
Chập trạng ngữ với chủ ngữ :
Ðây là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có giá trị như là trạng ngữ, xét trong mối quan hệ với giới từ đứng trước, lại vừa có giá trị như là chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với ngữ động từ hay ngữ tính từ đứng sau[1]. 
Ví dụ : 
(a) Qua bài thơ Tiếng rucủa Tố hữu đã để lại trong lòng ta một ấn tượng sâu sắc(BVHS). 
(B) Qua thơ văn yêu nước giai đoạn này đã làm nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. (BVHS). 
© Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã cho ta thấy vẻ đẹp hào hùng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp (BVHS).
(d) Qua bài thơ Sở kiến hànhđã lên án gay gắt bản chất thối nát của chế độ phong kiến. (BVHS).
(e) Với bút pháp sắcxảo đã tạo cho người đọc thấy được sự lố lăng của xã hội đương thời.(BVHS). 
Chập trạng ngữ với chủ ngữ là kiểu lỗi phổ biến nhất trong các kiểu lỗi chập cấu trúc ngữ pháp. 
Có ba cách sửa chữa kiểu lỗi sai này : 
Cách thứ nhất : Triệt tiêu chức năng trạng ngữ của danh từ /danh ngữ bị chập bằng cách bỏ giới từ đầu câu, làm cho danh từ /danh ngữ bị chập chỉ còn giữ chức năng chủ ngữ. Tất nhiên, chúng ta chỉ áp dụng cách này khi nghĩa của câu cho phép, chẳng hạn như năm câu vừa dẫn : 
(a) Bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc. 
(B) Thơ văn yêu nước giai đoạn này đã làm nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. 
© Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũngü đã cho ta thấy vẻ đẹp hào hùng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. 
(d) Bài thơ Sở kiến hành đã lên án gay gắt bản chất thối nát của chế độ phong kiến. 
(e) Bút pháp sắc sảo (của tác giả) đã giúp cho người đọc thấy được sự lố lăng của xã hội đương thời. 
Cách thứ hai : Tách danh ngữ bị chập thành hai thành phần ngữ pháp khác nhau : trạng ngữ và chủ ngữ, nếu như danh ngữ bị chập có định tố biểu thị quan hệ sở thuộc và nghĩa của câu cho phép. Thao tác cụ thể là bỏ giới từ của, thay vào đó bằng dấu phẩy. Chẳng hạn như đối với câu (a), © đã dẫn : 
(a) Qua bài thơ Tiếng ru, Tố Hữu đã để lại trong lòng ta một ấn tượng sâu sắc. 
© Qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã cho chúng ta thấy vẻ đẹp hào hùng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. 
Cách thứ ba : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó, và dựa vào văn cảnh, tạo chủ ngữ khác cho câu. Cách này áp dụng đối với trường hợp danh ngữ bị chập không có định tố biểu thị ý nghĩa sở thuộc. Chẳng hạn như đối với các câu (B), (d), (e) : 
(B) Qua thơ văn yêu nước giai đoạn này, các tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. 
(d) Qua bài thơ Sở kiến hành, Nguyễn Du đã lên án gay gắt bản chất thối nát của chế độ phong kiến. 
(e) Với bút pháp sắc sảo, tác giả (nhà văn) đã giúp cho người đọc thấy được sự lố lăng của xã hội đương thời. 
Chập định tố với chủ ngữ : 
Ðây là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có chức năng như định tố, xét trong mối quan hệ với danh từ / danh ngữ đứng trước, lại vừa có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với động ngữ hay tính ngữ đứng sau.
Ví dụ : 
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng đã dựng lên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ.(BVHS). 
(B) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn mày không dám nhìn ai mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận mình.(BVHS). 
© Bài thơ là tiếng nói chân tình của tác giả kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. (BVHS). 
(d) Cái công việcnuôi già dạy trẻ kia đâu có phải là những công việc làm đổ mồ hôi sôi nước mắtcủa những người phụ nữ trong ca dao đã phải gánh chịu bao nhiêu tầng áp bức mà còn phải đã gánh theo chồng lại gánh theo con. (LSVHVN, T.III) 
(e) Trong truyện ngắnChí phèo , Nam Cao đã vạch trần tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến là thủ phạm đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành, chất phác thành một tên lưu manh mất hết tính người. (BVHS). 
(f) Nguyễn Công Hoan không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn thịt con (dầu có thực trong cuộc sống), bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc căm ghét lũ thực dân chính là tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp, mà chỉ làm cho người đọc thấy ghê sợ. (TGVXVNHÐ). 
Chập định tố với chủ ngữ là kiểu lỗi tuy không phổ biến bằng chập trạng ngữ với chủ ngữ, nhưng cũng cần được lưu ý. Bởi vì kiểu lỗi này xuất hiện rải rác trong nhiều bài viết của học sinh. Bài viết của sinh viên đại học cũng không hiếm kiểu lỗi sai này . Sách báo in ấn chính thức cũng vậy. 
Có ba cách sửa lỗi chập định tố với chủ ngữ, tùy vào từng hiện tượng sai cụ thể. 
Cách thứ nhất : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của danh từ / danh ngữ bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó và tạo ra chủ ngữ cho động từ, tính từ hay ngữ tương đương đứng sau bằng cách lặp từ ngữ, dùng từ đồng nghĩa lâm thời hay dùng đại từ để thay thế. Sửa theo cách này là tách câu sai thành nhiều cú đẳng lập. 
Các câu (a), (B), © có thể sửa chữa theo cách vừa nêu : 
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng, ông (nhà văn, tác giả) đã dựng lên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ. 
(B) Tác giả đã cho chúng ta thấy nỗi khổ nhục của mẹ con người ăn mày, họ không dám nhìn ai, mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận của mình. 
© Bài thơ là tiếng nói chân thành của tácgiả, nhà thơ kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. 
Cách thứ hai : Tiến hành tương tự cách thứ nhất. Nhưng thay vì dùng dấu phẩy để tách câu sai thành nhiều cú, chúng ta dùng dấu kết thúc câu thích hợp, tách câu sai thành nhiều câu liên kết. 
Các câu (a), (B), ©, (d) có thể sửa chữa theo cách này : 
(a) Ðó là một thành công lớn của Vũ Trọng Phụng. Ông (nhà văn, tác giả) đã dựng lên tấn hài kịch của xã hội thời bấy giờ. 
(B) Tác giả cho chúng ta thấy nổi khổ nhục của mẹ con người ăn mày. Họ không dám nhìn ai, mà chỉ biết cúi đầu tủi hổ cho số phận của mình. 
© Bài thơ là tiếng nói chân tình của tác giả. Tác giả (nhà thơ) kêu gọi mọi người phải biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
(d) Cái công việc nuôi già dạy trẻkia đâu có phải là những công việc làm đổ mồ hôi sôi nước mắtcủa những người phụ nữ trong ca dao?Họ đã gánh chịu bao nhiêu tầng áp bức mà còn phảiđã gánh theo chồng lại gánh theo con. 
Cách thứ ba: Áp dụng trong trường hợp sau ngữ đoạn bị chập là động từ là, có bổ tố đứng sau là danh ngữ. Tiến hành theo cách này, ta loại bỏ động từ là, thay vào đó bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang hay dấu hai chấm, nhằm triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập và biến danh ngữ, vốn là bổ tố của là, thành giải thích ngữ. 
Câu (e) và (f) có thể sửa chữ theo cách này : 
(e) Trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã vạch trần tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến, thủ phạm đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành, chất phác thành một tên lưu manh mất hết tính người. 
(f) Nguyễn Công Hoan không nên khai thác những chi tiết như mẹ ăn thịt con (dầu có thực trong cuộc sống), bởi chưa chắc nó đã làm cho người đọc căm ghét lũ thực dân, tội phạm gây ra nạn đói khủng khiếp, mà chỉ làm cho người đọc thấy ghê sợ. 
Chập bổ tố với chủ ngữ : 
Chập bổ tố với chủ ngữ là hiện tượng danh từ / danh ngữ vừa có chức năng như bổ tố đối với động từ, tính từ hay ngữ tương đương đứng trước, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với động từ, tính từ hay ngữ tương đương đứng sau, xét ở cùng một bậc quan hệ cú pháp. 
Ví dụ : 
(a) Nguyễn Du thông cảm sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày đã gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân lương thiện.(BVHS). 
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèolà câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người.(BVHS). 
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân, khát vọng sống mãnh liệt được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng. (BVHS). 
(d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ Hải có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc giữa chốn giang hồ. (BVHS). 
Trong câu (a), danh ngữ mẹ con người ăn mày vừa có giá trị như bổ tố của thông cảm sâu sắc, lại vừa có giá trị như chủ ngữ đối với động ngữ đã phải gánh chịu bao đau khổ. Cũng trong câu này, danh ngữ bọn phong kiến thống trịvừa có giá trị như bổ tố của là, lại vừa có giá trị như chủ ngữ đối với động ngữ đã không đảm bảo được sống ấm no cho người dân lương thiện.Trong câu (B), danh ngữ truyện Chí Phèo là ngữ đoạn bị chập : nó vừa có chức năng như bổ tố của là, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với ngữ đoạn là câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người. Trong câu ©, hai danh ngữ lòng yêu tuổi xuân, khát vọng sống mãnh liệtlà hai danh ngữ bị chập : chúng vừa có chức năng như bổ tố ngữ đối với là, lại vừa có chức năng như chủ ngữ đối với động ngữ được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng.Trong câu (d) , danh ngữ nhân vật Từ Hải vừa có chức năng như bổ tố của khắc họa đậm nét, lại vừa có chức năng như chủ ngữ, xét trong mối quan hệ với các động ngữ có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc. Như vậy, danh ngữ nhân vật Từ Hảilà ngữ đoạn bị chập.
Trong bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát, hiện tượng chập bổ tố với chủ ngữ xuất hiện không phổ biến lắm. Tỉ lệ kiểu lỗi này tương đương với lỗi chập định tố với chủ ngữ. 
Có ba cách sửa chữa kiểu lỗi chập bổ tố với chủ ngữ, tùy vào hiện tượng sai cụ thể. 
Cách thư nhất : Triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó và tạo chủ ngữ cho động ngữ đứng sau bằng cách lặp từ ngữ, dùng từ đồng nghĩa lâm thời hay dùng đại từ thay thế. Sửa như vậy là tách câu sai thành nhiều cú đẳng lập . Tất cả bốn câu vừa dẫn đều có thể sửa chữa theo cách này : 
(a) Nguyễn Du thông cảm sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày, họ đã phải gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị, bọn chúng đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân. 
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo, đó là câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người. 
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt, tâm trạng ấy được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng. 
(d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ Hải, Từ Hải có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc giữa chốn giang hồ. 
Vì sửa theo cách thứ nhất là tách câu ra thành nhiều cú, nên kết quả thu được thường là những câu dài dòng, luộm thuộm. Do đó, ta nên sửa theo cách thứ hai. 
Cách thứ hai : Tiến hành giống như cách thứ nhất. Nhưng thay vì dùng dấu phẩy, ta dùng dấu chấm tách câu được sửa ra thành nhiều câu liên kết. 
Các câu (a), (B), © (d) có thể sửa chữa theo cách vừa nêu :
(a) Nguyễn Du đã cảm thông sâu sắc đối với mẹ con người ăn mày. Họ đã phải gánh chịu bao đau khổ, mà thủ phạm chính là bọn phong kiến thống trị. Bọn chúng đã không đảm bảo được cuộc sống ấm no cho người dân. 
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo. Ðó là câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người. 
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt. Tâm trạng ấy được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng. 
(d) Qua đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa đậm nét nhân vật Từ Hải. Từ Hải có vóc dáng phi thường, có khí phách hiên ngang, quen thói vẫy vùng ngang dọc giữa chốn giang hồ.
Cách thứ ba : Áp dụng đối với trường hợp ngữ đoạn bị chập đứng trước động từ là, và sau nó là danh từ / danh ngữ, làm bổ tố. Tiến hành theo cách sửa chữa này, ta loại bỏ là, thay thế nó bằng dấu phẩy, dấu gạch ngang hay dấu hai chấm, nhằm triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập và biến danh từ / danh ngữ, vốn làm bổ tố của là, thành giải thích ngữ. 
Câu (B) , có thể được sửa chữa theo cách này : 
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo - câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người. 
Cách thứ tư : Nếu cấu trúc và nghĩa của câu cho phép, ta triệt tiêu chức năng chủ ngữ của ngữ đoạn bị chập bằng cách đặt dấu phẩy sau nó, động ngữ đứng sau ngữ đoạn bị chập sẽ trở thành vị ngữ của một cú mà chủ ngữ xem như không được hiển ngôn hóa - một hiện tượng cô đúc cú pháp (syntactic condensation). 
Các câu (B), © có thể sửa theo cách này : 
(B) Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo, là câu chuyện đáng thương về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người. 
© Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt, được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng. 
Về cấu trúc nghĩa, cấu trúc chiều sâu, hai câu trên phải được hiểu như sau : 
Câu (B) : 
Trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao, nổi bật hơn hết là truyện Chí Phèo, ì truyện Chí Phèolà câu chuyện thương tâm về cuộc đời bế tắc, tuyệt vọng của một con người không được làm người. 
Câu © : 
Tâm trạng chủ yếu của nhà thơ là lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt, lòng yêu tuổi xuân và khát vọng sống mãnh liệt ấy được thể hiện nổi bật qua bài thơ Vội vàng. 
2.3. Câu rối cấu trúc ngữ pháp. 
Rối cấu trúc ngữ pháp là kiểu lỗi câu sai ngữ pháp mà hiện dạng của nó có những ngữ đoạn đan chéo vào nhau một cách rối rắm, sai quy tắc kết hợp, làm cho quan hệ cú pháp và chức năng cú pháp của chúng lệch lạc, thiếu phân minh.
Ví dụ : 
(a) Ðừng tưởng rằng bàn đá chông chênh là bàn đá kê không vững thì chỉ đúng là một phần thôi, mà còn là cái khó khăn của cách mạng buổi đầu. (BVHS). 
(B) Lúc bọn thằng Xâm bắt chị đứng trước máy để kêu gọi anh em trong hang ra hàng, nhưng chị đã không nói gì về hoạt động của đồng đội. (BVHS). 
© Như đôi tay ông, với những ngón to, đầu tù, thô tháp nhưng đấy là đôi tay vàng. (N.K.T - MÐLNNM). 
(d) Nhưng điều đáng quý hơn cả là trong người Từ Hải luôn tiềm tàng khát vọng cháy bỏng, nhưng quý hơn là cùng với tự do của mình đem đêïn tự do cho người khác, biết tôn trọng giá trị của người khác, chứng tỏ Từ Hải rất hiểu tư cách và tính tình của Kiều. (BVHS). 
(e) Trong xã hội đối với con người quan hệ giữa cái nết và cái đẹp đối với người phụ nữ phải có cái nết thật thà hiền lành và cái đẹp xấu xa độc ác. (BVHS) 
(f) Qua bài thơ Sở kiến hànhkhi đọc qua chúng ta nhận thấy có hai điểm đối lập thể hiện qua hai nhóm ba mẹ con người ăn mày, đói rách, khổ sở, đối lập với bọn quan lại giàu có, sung sướng, no đủ và phí của, đây chính là giá trị tố cáo chế độ phong kiến đương thời và lên tiếng kêu thương và bênh vực cho mẹ con người ăn mày. (BVHS). 
(g) Nguyễn Du không những cảm thông cho những số phận của những cô gái lầu xanh, những người tôi tớ, mà tình thương của tác giả còn là thông cảm cho những người tha phương cầu thực sống không nhà không cửa, ăn đói mặc rét phải chịu muôn đắng ngàn cay mà xã hội thối nát dành cho họ như vậy, nhưng tấm lòng nhân đạo thương người của tác giả đối với những con người tha phương cầu thực sống cảnh ăn đói mặc rét như vậy mà tác giả ở đây còn tố cáo cái xấu xa kiêu căng tàn bạo của xã hội phong kiến ăn sung mặc sướng có kẻ hầu người hạ mà làm ngơ trước nỗi khổ cực của người dân, thản nhiên ngồi mâm cổ. (BVHS). 
Có thể chia lỗi rối cấu trúc thành hai kiểu lỗi nhỏ, dựa vào mức độ rối : rối cấu trúc nhẹ và rối cấu trúc nặng. 
Rối cấu trúc nhẹ : 
Rối cấu trúc nhẹ là kiểu lỗi câu rối, về cơ bản, có các thành phần, thành tố tương đối chuẩn mực, chấp nhận được. Nhưng bên cạnh đó, câu lại có những yếu tố, đặc biệt là các từ công cụ mở đầu các ngữ đoạn, bị kết hợp sai quy tắc ngữ pháp, tạo thành những nút rối. Các câu (a), (B), ©, thuộc trường hợp này. 
Rối cấu trúc nặng : 
Rối cấu trúc nặng là kiểu lỗi câu rối, trong đó, đa số các ngữ đoạn đều bị kết hợp chồng chéo, rối rắm, sai quy tắc ngữ pháp, do đó, khó mà xác định một cách rõ ràng, phân minh chức năng cú pháp của chúng. Các câu (d), (e), (f), (g) thuộc trường hợp này.
Trong bài viết của học sinh THPT, lỗi rối cấu trúc ngữ pháp xuất hiện không phổ biến lắm. Bài có sai, thường không quá hai, ba lỗi, và đa số thuộc kiểu lỗi rối nhẹ. Trong bài viết học sinh THCS, lỗi rối cấu trúc ngữ pháp xuất hiện tương đối phổ biến. Có nhiều bài viết đầy dẫy kiểu lỗi này. 
Rối cấu trúc ngữ pháp là một trong những kiểu lỗi ngữ pháp cần được lưu ý đến nhất. Bởi vì kiểu lỗi ngữ pháp này phản ánh rõ sự yếu kém về năng lực diễn đạt của học sinh. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi rối cấu trúc ngữ pháp là sự yếu kém về năng lực tư duy và kiến thức ngữ pháp, cụ thể là kiến thức về cấu trúc câu, về quan hệ cú pháp và các kiểu quan hệ cú pháp, về các phương thức và phương tiện ngữ pháp... Thêm vào đó là lối viết theo bản năng, nghĩa là nghĩ thế nào, viết thế ấy, lắp ghép từ ngữ một cách quàng xiên, thiên thẹo, thiếu ý thức phân định câu cũng như phân định các thành phần, thành tố trong tổ chức nội bộ của từng câu... Và kết quả thu được là những chuỗi từ ngữ hỗn độn, chứ thật sự không phải là câu với ý nghĩa đúng đắn của nó. Các trường hợp rối nặng vừa dẫn phản ảnh rõ điều đó. 
Sửa chữa lỗi rối cấu trúc ngữ pháp, phải tùy vào mức độ rối và hiện tượng rối cụ thể. 
Ðối với câu rối cấu trúc nhẹ : 
Như đã nói, trừ một vài nút rối, câu rối cấu trúc nhẹ có những thành phần, thành tố tương đối chuẩn mực, chấp nhận được. Do đó, khi sửa chữa câu rối thuộc kiểu này, cách thức chủ yếu là tháo gỡcác nút rối. Cụ thể là điều chỉnh, thay thế các yếu tố bị kết hợp sai quy tắc, phản ánh sai quan hệ cú pháp. Nếu câu sai có những ngữ đoạn thiếu chính xác về ý nghĩa hay trật tự, ta cũng cần phải sửa chữa , thay đổi cách diễn đạt sao cho câu đảm bảo chuẩn mực về cả hai mặt : cấu trúc và ý nghĩa. 
Các câu (a), (B), © có thể được sửa chữa như sau : 
(a) Nếu cho rằng (hình ảnh) bàn đá chông chênhlà bàn đá kê không vững, thì chỉ đúng một phần thôi. Hình ảnh đó còn nói lên tình thế khó khăn của cách mạng thời kì đầu. 
(B) Lúc bọn thằng Xâm bắt chị (Sứ) đứng trước máy để kêu gọi anh em ra hàng, chị đã dùng chính phương tiện thông tin của chúng động viên anh em và thông báo tình hình bên ngoài cho anh em trong hang biết. 
© Ðôi tay ông, tuy ngón to, đầu tù, thô tháp,nhưng đấy là đôi tay vàng. 
Ðối với câu rối cấu trúc nặng :
Sửa chữa câu rối cấu trúc nặng, trước hết cần xác định lại nội dung cơ bản mà học sinh muốn biểu đạt. Trên cơ sở đó, xét xem những ngữ đoạn, những yếu tố nào trong cấu trúc câu bị rối, phản ánh sai quan hệ cú pháp hay lệch lạc về nội dung biểu đạt. Tiếp theo là tách các ngữ đoạn ra và định hướng chức năng cú pháp của chúng : Ngữ đoạn nào có thể làm thành phần nòng cốt ? Ngữ đoạn nào làm thành phần phụ ? Ngữ đoạn nào là cú chính ? Ngữ đoạn nào là cú phụ ? ... Cuối cùng, ta vận dụng các phương thức ngữ pháp sắp xếp, liên kết các ngữ đoạn lại thành câu chuẩn mực. Khi tổ chức lại câu, cần lưu ý : Các yếu tố phản ánh sai quan hệ cú pháp, phải thay thế bằng yếu tố khác. Các ngữ đoạn trùng lặp về nội dung biểu đạt hay có nội dung biểu đạt quá vụng về, không có giá trị thông tin, phải loại bỏ. Trong trường hợp câu sai có cấu trúc quá dài, có nội dung phức tạp, ta nên tách ra thành nhiều câu liên kết. Cũng cần lưu ý thêm rằng, những câu rối cấu trúc, đồng thời có nội dung biểu đạt quá vụng về, ngô nghê, lệch lạc, chẳng hạn như câu (e) đã dẫn, chúng ta không nhất thiết phải sửa chữa. 
Sau đây, chúng ta thử áp dụng cách sửa chữa vừa nêu đối với các câu (d), (f) và (g). Câu (d): Dựa vào cấu trúc có sẵn của câu, ta thấy học sinh muốn thể hiện ba nội dung chính : 
- Khát vọng tự do ở Từ Hải, tự do của bản thân mình và tự do của người khác. 
- Ý thức tôn trọng giá trị và nhân phẩm của người khác ở Từ Hải.
- Sự hiểu biết của Từ Hải về tư cách, phẩm chất của Thúy Kiều.
Nhưng để diễn đạt ba nội dung đó, cấu trúc của câu có những ngữ đoạn rối rắm, chồng chéo lên nhau, và vài từ dùng sai, làm cho các ngữ đoạn không lô-gích với nhau về ý nghĩa. Cụ thể là : 
- Nhưng điều đáng quý hơn cả là trong người Từ Hải / nhưng quý hơn là cùng với tự do của mình. 
Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau về chức năng và phần lớn nội dung biểu đạt. Phải loại bỏ một trong hai ngữ đoạn. 
- biết tôn trọng giá trị của người khác, chứng tỏ Từ Hải rất hiểu tư cách và tính tình của Kiều.
Ðộng từ chứng tỏlàm cho ngữ đoạn này thiếu lô-gích về nghĩa. Do đó, có thể loại bỏ nội dung biểu đạt thứ ba, thể hiện bởi động ngữ chứng tỏ Từ Hải, hay thay bằng nội dung khác. 
Câu © có thể được tổ chức lại như sau : 
Nhưng điểm nổi bật ở con người Từ Hải là khát vọng tự do cháy bỏng, tự do của bản thân mình và tự do của người khác, cùng với ý thức tôn trọng giá trị, nhân phẩm. Và có thể viết thêm một câu, thay cho động ngữ đã bị loại bỏ : 
Chính khát vọng và ý thức ấy đã thúc đẩy Từ Hải ra tay cứu Kiều thoát khỏi cảnh lầu xanh nhơ nhuốc, đưa Kiều lên địa vị một phu nhân. 
Câu (f) : Câu (f) có hai nội dung cơ bản, quan hệ chặt chẽ với nhau : 
- Hai cảnh đời (hình ảnh) trái ngược nhau trong bài thơ Sở kiến hành: bốn mẹ con người ăn mày đói khổ, rách rưới và bọn quan lại no say, xa hoa, lãng phí. 
- Tiếng nói tố cáo và thái độ đồng cảm, bênh vực của tác giả toát lên từ hai cảnh đời trái ngược với nhau. 
Nhưng cấu trúc câu có nhiều ngữ đoạn rối rắm, chồng chéo lên nhau, vi phạm quy tắc kết hợp về mặt ngữ pháp. Cụ thể là : 
- Qua bài thơ Sở kiến hành / khi đọc qua. 
Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau về chức năng cú pháp và nội dung biểu đạt. 
-có hai điểm đối lập.../ đối lập với.
Hai ngữ đoạn này chồng chéo lên nhau, đó là chưa kể đến một số từ ngữ dùng chưa hay, thiếu chính xác : điểm, nhóm, no đủ, phí của.
- đây chính là giá trị tố cáo / và lên tiếng kêu thương và bênh vực họ. 
Hai ngữ đoạn này không lô-gích với nhau. Bởi vì đây- đại từ, thay thế cho hai hình ảnh đối lập - chỉ có thể mang ý nghĩa tố cáo, chớ không thể lên tiếng kêu thương và bênh vực được. 
Câu (f) có thể được tách ra thành các ngữ đoạn với chức năng cú pháp dự kiến như sau : 
- Qua bài thơ Sở Kiến Hành/ khi đọc qua : 
Một trong hai ngữ đoạn có thể làm trạng ngữ. 
- chúng ta nhận thấy có hai điểm đối lập nhau. 
Ngữ đoạn này làm kết cấu chủ - vị nòng cốt thứ nhất, sau khi loại bỏ yếu tố thừa thãi, chồng chéo lên nhau, và thay thế các từ, ngữ thiếu chính xác. 
- ... thể hiện qua ... no đủ và phí của: 
Ngữ đoạn này chuyển thành giải thích ngữ, sau khi loại bỏ các yếu tố dư thừa, chồng chéo lên nhau và thay thế các từ, ngữ dùng sai. 
- đây chính là giá trị tố cáo... cho mẹ con người ăn mày:
Ngữ đoạn này làm kết cấu chủ - vị thứ hai, sau khi chuyển đổi cấu trúc, thay thế một vài từ, ngữ có nội dung biểu đạt vụng về, thiếu lô-gích. 
Trên cơ sở những điều vừa phân tích, câu (f) có thể được tổ chức lại thành hai câu liên kết : 
Ðọc bài thơ Sở kiến hành, chúng ta nhận thấy có hai cảnh đời (hình ảnh) trái ngược (đối lập ) với nhau : bốn mẹ con người ăn mày đói khổ, rách rưới và bọn quan lại no say, xa hoa, lãng phí. Hai cảnh đời đối lập với nhau ấy có ý nghĩa phê phán gay gắt chế độ phong kiến thối nát, đồng thời qua đó, tác giả còn bảy tỏ thái độ cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ trong xã hội. 
Câu (g) : 
Câu (g) bao gồm ba nội dung cơ bản, có quan hệ chặt chẽ với nhau : 
- Tấm lòng cảm thông của Nguyễn Du đối với thân phận của các cô gái lầu xanh, những người lao động vất vả, khổ nhọc... 
- Tấm lòng cảm thông của Nguyễn Du đối với mẹ con người ăn mày, sống không nhà cửa... 
- Thái độ phê phán của Nguyễn Du đối với chế độ phong kiến thối nát, bất công và bọn quan lại thống trị sống xa hoa, thản nhiên trước nỗi thống khổ của nhân dân... 
Diễn đạt ba nội dung cơ bản đó, cấu trúc câu văn có nhiều chỗ rối rắm, chồng chéo lên nhau. 
Hiện tượng rối thứ nhất bộc lộ qua mối quan hệ giữa hai ngữ đoạn : 
- không những cảm thông cho những số phận của những cô gái lầu xanh../ mà tình thương của tác giả còn cảm thông cho... 
Hiện tượng rối thứ hai thể hiện qua mối quan hệ giữa : 
- những người tha phương cầu thực.../ mà xã hội dành cho họ như vậy. 
Hiện tượng rối thứ ba, rối nặng nhất về cấu trúc, là sự chồng chéo, trùng lặp về nội dung biểu đạt ở ngữ đoạn : 
- nhưng tấm lòng nhân đạo thương người của tác giả đối với những con người tha phương cầu thực sống cảnh ăn đói mặc rét như vậy mà tác giả ở đây còn... 
Hiện tượng rối thứ tư bộc lộ qua mối quan hệ ngữ nghĩa - lô-gích giữa các ngữ đoạn :  - ...tố cáo cái xấu xa kiêu căng tàn bạo của xã hội phong kiến / ăn sung mặc sướng có kẻ hầu người hạ mà làm ngơ trước nỗi khổ cực của nhân dân / thản nhiên ngồi mâm cổ. 
Dựa trên ba nội dung cơ bản vừa nêu, câu (g) có thể được tách ra và tổ chức lại thành một chuỗi câu liên kết như sau : Nguyễn Du không những cảm thông cho số phận của những cô gái lầu xanh, những người lao động dãi dầu mưa nắng, mà nhà thơ còn tỏ lòng xót thương vô hạn trước những người ăn mày, những kẻ không nhà không cửa, ăn đói mặc rét, sống nhờ vào sự bố thí của người khác, chịu muôn đắng nghìn cay. Xuất phát từ tấm lòng nhân đạo mênh mông ấy, Nguyễn Du đã vạch trần bản chất thối nát, bất công của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Dưới chế độ ấy, bọn quan lại thống trị sống xa hoa, lãng phí, và thản nhiên trước những kiếp đời lầm than, tăm tối, bần cùng của nhân dân. 

Việc phân loại lỗi câu sai ngữ pháp do vi phạm quy tắc kết hợp thành nhiều kiểu lỗi như đã trình bày là nhằm mục đích tạo cơ sở thuận lợi cho việc xem xét, nhận diện và sửa chữa câu sai ngữ pháp. Trong thực tế bài viết của học sinh, hiện tượng hai, ba kiểu lỗi xuất hiện cùng lúc trong câu văn là khá phổ biến. Ðối với hiện tượng câu sai nhiều kiểu lỗi phức tạp như vậy, chúng ta cần từng bước phân tích và phân loại lỗi sai, trên cơ sở đó, vận dụng kết hợp nhiều cách sửa chữa để tổ chức lại câu sao cho thật phù hợp. Và một lần nữa, xin lưu ý rằng, khi tiến hành sửa chữa câu sai ngữ pháp, một mặt chúng ta phải căn cứ vào cấu trúc có sẵn và nội dung biểu đạt của câu ; mặt khác, phải đặt câu sai trong văn cảnh, nghĩa là phải xem xét câu sai trong mối quan hệ nhiều mặt với các câu chung quanh. Kết quả sửa chữa câu sai được xem là tối ưu khi câu đã sửa chữa đảm bảo ba yêu cầu : Thứ nhất, nội dung biểu đạt của nó vừa chính xác, vừa trung thực với ý đồ biểu đạt của học sinh ; chỉ nên điều chỉnh, thay đổi, thêm bớt trong trường hợp nội dung biểu đạt của câu quá vụng về hay lệch lạc, mâu thuẫn. Thứ hai, cấu trúc câu đã sửa chữa phải phù hợp với chuẩn mực ngữ pháp. Thứ ba, câu đã sửa chữa phải liên kết chặt chẽ với các câu chung quanh ở cả hai bình diện : nội dung và hình thức./.

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Tọa đàm: Bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thứ 3, 16:00, 01/09/2015
VOV.VN tổ chức tọa đàm trực tuyến “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vào chiều 1/9, tại Hà Nội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc. Với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, rất nhiều bậc trí thức, các học giả, kể cả giáo sỹ, quan lại, cho đến những ông vua đã thoái vị như Bảo Đại đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm hóa và vận động tham gia chính quyền cách mạng. Cách dùng người của Bác Hồ thể hiện thái độ trọng thị, tầm nhìn minh triết, lòng nhân ái bao la và tư tưởng đại đoàn kết cao cả. 70 năm đã trôi qua, những bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài vẫn còn nguyên giá trị tới ngày nay.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Báo điện tử VOV của Đài TNVN tổ chức cuộc tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vào 14h chiều 1/9 tại Hà Nội.
Các vị khách mời tham gia chương trình gồm: PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); PGS.TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Ông Lê Quang Thưởng - Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương.
VOV.VN xin giới thiệu phần đầu của cuộc tọa đàm này:
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con người là yếu tố quyết định
PV: Thưa PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, theo ông, vai trò của cá nhân, của nhân tố con người trong thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là gì?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 là cuộc cách mạng điển hình về giải phóng dân tộc trong thế kỷ 20.
Cuộc Cách mạng ấy đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị từ 1930, thậm chí, nếu nói về chuẩn bị con người thì phải từ 1920 khi Nguyễn Ái Quốc mở những lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc).
Sau này, trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc trực tiếp từ 1939-1945, Bác Hồ đã hết sức quan tâm đến nhân tố con người, đào tạo cán bộ trực tiếp cho cuộc Cách mạng.
Sự chuẩn bị cán bộ trước hết nói từ cấp Trung ương. Từ khi Bác Hồ về nước vào đầu năm 1941, Hội nghị Trung ương 8 đã quy tụ những đồng chí lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta lúc đó, trải qua thử thách của nhiều cao trào cách mạng trước để hình lên đội ngũ lãnh đạo trung kiên của Đảng, của dân tộc.
Đến khi trực tiếp nổ ra cuộc Cách mạng Tháng 8, ở cấp Trung ương, chúng ta đã có những nhà lãnh đạo lỗi lạc, cùng với Hồ Chí Minh như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt… và nhiều đồng chí khác ở cấp chiến lược.
Cho đến quyết định khởi nghĩa Tháng 8, ban lãnh đạo tối cao có vai trò quyết định trong việc phát động phong trào cũng như dự báo tình hình và trực tiếp chỉ đạo cụ thể. Đặc biệt là sau Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào vào 14-15/8/1945.
Khi nói đến nhân tố con người, ngoài cấp chiến lược – cấp Trung ương thì phải nói đến những người lãnh đạo cụ thể ở các cấp xứ ủy, tỉnh ủy, thành ủy. Ở đây, trong giờ phút kỷ niệm Cách mạng Tháng 8 này, chúng ta biết rằng, lịch sử là do nhân dân làm ra, nhưng cũng có vai trò của con người cụ thể.
Tôi ví dụ như thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8 không thể tách rời vai trò của Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn Huy Khôi, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Quyết… Những đồng chí này có vai trò quyết định để khởi nghĩa thắng lợi.
Còn ở miền Trung, ngoài vai trò của xứ ủy Trung kỳ thì đồng chí Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh đã trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Huế và các tỉnh miền Trung.
Ở Nam kỳ, phải nói tới vai trò của Bí thư xứ ủy Trần Văn Giàu, ông là một nhà khoa học và một nhà lãnh đạo lỗi lạc, được đào tạo khá bài bản.
Vùng nông thôn thì phải nói đến lãnh đạo của các đồng chí Dân Tôn Tử, Nguyễn Thị Thập…
Nếu nhìn xuống tận các tỉnh, thành phố thì chúng tôi – với tư cách những người nghiên cứu lịch sử thì thấy có nhiều cá nhân rất xuất sắc, chịu trách nhiệm trước đất nước, dân tộc và chịu trách nhiệm trước Đảng. Họ đã có những quyết đoán trước khi nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương.
Khi nói tới vai trò của các cá nhân trong Cách mạng Tháng 8, tôi có thể khái quát như vậy...
PV: Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một văn bản với tiêu đề “Tìm người tài đức”. Các vị khách mời đánh giá như thế nào về văn bản này của Bác?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Trước khi nói về văn bản “Tìm người tài đức” của Bác Hồ, tôi phải nói tới cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 và sự ra đời của Chính phủ lâm thời. Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào có 15 người là thành viên của Ủy ban Giải phóng Dân tộc, khi về đến Hà Nội thì cải tổ thành Chính phủ lâm thời.
Điều mà có lẽ nhiều người chưa biết đến, đó là có những đồng chí lãnh đạo Đảng, lãnh đạo mặt trận Việt Minh lúc đó đã tự rút lui khỏi danh sách Chính phủ lâm thời để nhường chỗ cho những nhà trí thức, nhân sĩ tham gia. Có thể kể đến đồng chí Trường Chinh (Tổng Bí thư), Nguyễn Lương Bằng (lãnh đạo của Tổng bộ Việt Minh), đồng chí Nguyễn Chí Thanh.
Cho đến khi công bố danh sách Chính phủ lâm thời ngày 28/8/1945, trong 15 thành viên thì các nhân sĩ yêu nước chiếm khoảng 2/3. Trong giờ phút này, chúng ta nên nhắc lại 9 người tri thức, nhân sĩ được tham gia Chính phủ lâm thời với tất cả nhiệt huyết của mình là: Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Trọng Khánh, Đào Trọng Kim, Phạm Ngọc Thạch, Vũ Đình Hòa, Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân.
Sau này, Chính phủ lâm thời qua nhiều lần cải tổ nhưng những người này vẫn tại vị và bổ sung thêm một số người khác. Đến khi lập Chính phủ chính thức sau bầu cử Quốc hội vào 2/3/1946, các vị nhân sĩ trí thức vẫn tích cực tham gia.
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Văn bản của Đảng ban hành ở thời điểm này về việc tìm người tài đức thực chất đã có từ rất sớm. Đảng và Bác Hồ đã quan tâm đến nhân tố con người và coi rằng đây là yếu tố quyết định, nên đã đề ra chủ trương lựa chọn người có đức, có tài để tham gia bộ máy Nhà nước trong lúc chính quyền còn non trẻ.
Từ chủ trương đó, Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn đúng và đặt đúng nhân sự vào từng cương vị, vị trí cụ thể như PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc đã nêu. Những người đó đảm đương chức vụ kéo dài trong nhiều năm.

Bác Hồ đã rất quyết đoán trong việc bố trí, sắp xếp cán bộ. Việc lựa chọn, sử dụng người của Bác Hồ có tầm chiến lược lâu dài và sắc sảo.
Phải nói là, văn bản này thể hiện việc coi trọng con người vừa có đức, vừa có tài. Như Bác từng nói: “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Nhưng ngược lại, có tài mà không có đức thì vô dụng”. Bác kết hợp hài hòa cả hai nhân tố đó trong việc lựa chọn người ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công và xây dựng chính quyền cách mạng còn non trẻ...
PV: Trong giai đoạn đầu thành lập nước, mặc dù chính quyền vừa được thành lập còn rất non trẻ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh dám dùng cả những quan chức cấp cao của Triều đình Huế, của Chính phủ Trần Trọng Kim như Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe; các chức sắc tôn giáo như Phạm Bá Trực, Cao Triệu Phát; các thủ lĩnh dân tộc như Vi Văn Định, “vua Mèo”… Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kiên trì hai lần gửi điện mời nhà nho yêu nước Huỳnh Thúc Kháng từ Huế ra Hà Nội làm Bộ trưởng Nội vụ. Tại sao Bác lại có lòng tin với nhân tài và làm được như vậy?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Bác Hồ là người mạnh dạn trong sử dụng cán bộ, sử dụng nhân tài, việc này cũng là kế thừa truyền thống dân tộc. Dân tộc ta hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước có truyền thống coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, như vua Quang Trung sau này cũng đã nói: Dựng nước thì lấy việc học làm đầu. Cho nên những người có học vấn, có trình độ cao, được Bác Hồ rất chú trọng.
Trong những năm 1945-1946, sau khi tuyên bố độc lập, Bác có 2 bài đăng trên báo Cứu Quốc đó là bài “Nhân tài và kiến quốc” đăng ngày 14/11/1945, và đến 20/11/1946, Bác tiếp tục có bài “Tìm người tài đức”. Hai bài báo đó tuy ngắn, nhưng chứa đựng những nội dung rất quan trọng trong việc đánh giá con người, đánh giá nhân tài.
Chúng ta cũng thấy hiếm có cuộc cách mạng nào như cuộc Cách mạng Tháng Tám sử dụng nhiều nhân tài, kể cả lúc giành chính quyền và sau khi lập chính quyền. Sau khi lập chính quyền còn tiếp tục mở rộng thành phần trí thức và các lực lượng tích cực tham gia vào sự nghiệp kiến thiết đất nước. Và cũng hiếm có cuộc cách mạng nào mời cả Vua làm cố vấn tối cao như mời Vua Bảo Đại.
Sau khi viết bài “Nhân tài và kiến quốc”, chúng ta mới mở rộng thành phần Chính phủ ngày 1/1/1946. Khi mở rộng thành phần, Bác đã viết thư mời cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cụ Huỳnh Thúc Kháng sau khi biết đích xác Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì đã nhận lời.
Khi ra Hà Nội, có một chi tiết là cụ Huỳnh Thúc Kháng đã gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp trước và đồng chí Võ Nguyên Giáp nói tinh thần của Bác là mời cụ tham gia Chính phủ. Cuối cùng, cụ đã gặp Bác Hồ trong 1 tiếng đồng hồ và nhận lời tham gia Chính phủ, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đến khi Bác sang Pháp thì giao cho cụ quyền Chủ tịch Chính phủ.
Có thể nói, những nhân vật như cụ Huỳnh Thúc Kháng là điển hình của việc sử dụng những con người tâm huyết, vì cụ Huỳnh là một trong những nhà yêu nước nổi tiếng.
Ngoài ra, cũng phải lưu ý là khi mở rộng thành phần Chính phủ, kể cả Chính phủ chính thức sau ngày 2 tháng 3 thì những nhân vật của chính quyền cũ được tham gia rất nhiều. Như 3 nhân vật Bộ trưởng trong Chính phủ Trần Trọng Kim như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh vốn là Bộ trưởng Bộ Thanh Niên (trong Chính phủ Trần Trọng Kim), Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo.
Hay như quan khâm sai đại thần Phan Kế Toại, sau này cụ cũng tham gia Chính phủ và đi với Chính phủ đến cùng, sau này cụ làm Phó Thủ tướng, và có lẽ cụ là Phó Thủ tướng lâu nhất trong lịch sử của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhìn lại tất cả những nhân vật, chúng ta thấy tinh thần nổi bật ở Hồ Chí Minh là bất kỳ người nào dù xuất thân ở tầng lớp, vị trí trong chế độ cũ như thế nào nhưng thật sự yêu nước, mang hết tài đức để đóng góp cho sự phát triển, bảo vệ và xây dựng đất nước thì Bác Hồ đều mời hợp tác một cách chân thành chứ không hề có ý là sách lược, sử dụng tạm thời.
Ông Lê Quang Thưởng: Bác Hồ đã để lại bài học lớn về sử dụng nhân tài, sử dụng con người. Tại sao Bác lại làm được điều đó? Điều đó xuất phát từ mục tiêu cách mạng thời đại, quan trọng nhất, tập trung nhất là giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc. Khẩu hiệu giành độc lập dân tộc đã tập hợp được quảng đại quần chúng kể cả các tầng lớp trên, kể cả những người tham gia guồng máy cai trị của chế độ thực dân.
Cụ thể, những con người mà Bác đã lựa chọn và tiến cử vào bộ máy lãnh đạo của Trung ương thì đối với những quan lại cũ thì đó là những người làm việc liêm khiết, không để lại tai tiếng đối với nhân dân. Nhân dân biết điều đó, thông tin đến Bác để Bác có cơ sở tiến cử và đưa họ lên những vị trí lãnh đạo cũng như sử dụng họ.
Còn những nhân vật tôn giáo, đại diện cho các dân tộc đó cũng là những người yêu nước, rất xứng đáng để giao cho họ những trọng trách trong Chính phủ mới...
PV: Có lẽ chúng ta cũng nói thêm một chút về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, từ một thầy giáo dạy Sử, ông đã được Bác Hồ trọng dụng và sau trở thành Vị Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam?
PGS-TSKH Nguyễn Trọng Phúc: Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người yêu nước nhiệt thành và ngay từ thời trẻ đã sớm đi vào con đường hoạt động cách mạng. Năm 1927, đồng chí đã tham gia vào tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng - 1 trong 3 tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và được tiếp cận với những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Với những giác ngộ cách mạng như vậy, vào đầu những năm 30, đồng chí trở thành người giác ngộ theo lý tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Sau này khi ra Hà Nội, đồng chí vừa hoạt động công khai, vừa dạy học nhưng bí mật lại là hoạt động cho Đảng.
Mùa xuân Canh Thìn, sau ngày Tết, Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc để liên lạc với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc với Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ở Côn Minh là bước ngoặt trong nhận thức của Võ Nguyên Giáp đối với sự nghiệp cách mạng và gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc.
Sau khi Bác Hồ trở về nước ngày 28/1/1941, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp cũng trở về theo sự chỉ đạo của Bác, lúc đó, nước Pháp đang rơi vào tay phát xít Đức nên Bác nói đây là cơ hội tốt để chúng ta trở về giành độc lập.
Lúc đó, lẽ ra đồng chí Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Bác cử đi học ở Diên An, sau đó ở Liên Xô nhưng phải hoãn việc đi học để trở về nước. Từ đó, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1941 cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Võ Nguyên Giáp luôn là người học trò tin cậy, gần gũi nhất của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Đến khi Cuộc cách mạng tháng Tám nổ ra, cũng là lúc Bác Hồ đặt tất cả sự tin cậy vào người học trò của mình, không những về phẩm chất chính trị, phẩm chất của người cộng sản mà ở các tinh thần yêu nước, tiêu biểu cho một lực lượng trí thức cách mạng lúc đó. Bác Hồ đã chính thức giao cho Võ Nguyên Giáp việc xây dựng lực lượng vũ trang, lãnh đạo Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Ở giờ phút tháng 8/1945, tôi muốn nhấn mạnh thêm về lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Võ Nguyên Giáp ở căn cứ địa Tân Trào: “Lúc này thời cơ ngàn năm có một, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Lúc đó, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng đã ngồi để thảo luận tình hình trong nước và quốc tế.
Trong nước, cao trào cách mạng phát triển tới đỉnh cao, tổ chức Đảng sẵn sàng đưa quần chúng vào nhiệm vụ cách mạng. Tình hình quốc tế dồn dập sau thất bại của Đức, Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, trước đó là Hội nghị Tehran năm 1943, rồi Hội nghị San Francisco…, phân tích tình hình trong nước và quốc tế để đi đến quyết định.
Lúc đó, Bác đã để ý tới 2 nguy cơ lớn, thời cơ có thể đã xuất hiện giành được thắng lợi nhưng phải nhanh chóng để đẩy lùi 2 nguy cơ lớn, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đã thống nhất được nhận thức về 2 nguy cơ này và ghi vào Nghị quyết của Hội nghị Đảng toàn quốc họp tại Tân Trào.
Nguy cơ thứ nhất là Pháp lợi dụng Nhật thất bại có thể quay lại áp đặt chế độ cai trị như trước ngày 9/3 - ngày Nhật đảo chính Pháp. Đấy là nguy cơ lớn nhất, và sau này Pháp quyết tâm làm việc đó, xâm chiếm Nam bộ sau ngày độc lập. Nguy cơ thứ hai, là quân Anh và Quốc dân đảng Trung Hoa kéo vào để giải giáp theo Hội nghị Potsdam, từ Đà Nẵng trở vào là quân Anh, từ Đà Nẵng trở ra là quân Tàu Tưởng Giới Thạch, những thế lực này cũng có mưu đồ rất lớn.
Như trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc có nêu rõ họ có mưu đồ xâm chiếm nước ta, nếu chúng ta không giành chính quyền nhanh, với tư cách người chủ đất nước độc lập tiếp quân đồng minh, nguy cơ này xuất hiện sẽ gây nhiều khó khăn cho việc giành chính quyền.
Khi nói về Võ Nguyên Giáp có thể nói rằng, lúc giành chính quyền, đây là một trong những người có bộ óc vĩ đại đã cùng với Bác Hồ để quyết định Tổng khởi nghĩa. Sau khi giành chính quyền, Võ Nguyên Giáp vẫn là người luôn ở bên cạnh Bác.
Trong cơ cấu Chính phủ lâm thời, Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi cải tổ Chính phủ lâm thời, Võ Nguyên Giáp thôi không làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, chức đó Bác Hồ giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi đó, Võ Nguyên Giáp không giữ bất cứ chức vụ nào trong bộ máy, sau này kháng chiến mới trở lại làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tuy vậy, ông vẫn là linh hồn cùng với Thường vụ Trung ương cùng với Bác Hồ chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ chính quyền cách mạng, củng cố chính quyền cách mạng, tiến hành cuộc kháng chiến thành công.
Ông Lê Quang Thưởng: Các nhân vật lãnh đạo của đất nước ta có rất nhiều người tài, nhưng trong các cuộc mít tinh lớn người ta hay nhắc tới cụ Hồ và tướng Võ Nguyên Giáp. Dấu ấn của Tướng Giáp gắn liền với Chiến thắng Điện Biên Phủ. Chúng ta thắng trong trận chiến Điện Biên Phủ là một cú hích quan trọng để lật đổ một mảng lớn chế độ thực dân.
Võ Nguyên Giáp đã được báo chí quốc tế liệt kê là một trong 10 vị tướng nổi bật trên thế giới. Sở dĩ ông được xếp vào vị trí quan trọng ấy chính là thành tựu của cách mạng Việt Nam, thành tựu của cuộc kháng chiến, mà mở đầu là những trận đánh của quân đội Nhân dân Việt Nam sau khi ra đời, và người cầm quân không ai khác là Võ Nguyên Giáp kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp là trận Điện Biên Phủ.
Đấy là một con người vĩ đại không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trên thế giới.
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người được nhân dân ta suy tôn là vị Đại tướng của lòng dân, có thể nói ông là học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ở góc độ phát hiện và trọng dụng nhân tài, Bác Hồ đã vô cùng tài tình và sáng suốt khi lựa chọn Võ Nguyên Giáp. Nhiều người vẫn đặt câu hỏi, không biết Võ Nguyên Giáp vốn là một thầy giáo dạy Sử nhưng đã trở thành một vị Đại tướng đã được đào tạo về chiến lược quân sự ở đâu. Đại tướng cũng đã có lần trả lời câu hỏi này và nói rằng ông học từ cuộc sống, từ thực tế.
Nhưng phải nói rằng, việc Bác Hồ lựa chọn rồi giao nhiệm vụ là một tầm chiến lược lâu dài, dù có những lúc ông phải rút về phía sau chứ không đảm đương những vị trí trong Chính phủ. Đấy là quá trình cùng sát cánh với Bác Hồ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ để nghiên cứu tìm ra những vấn đề chiến lược cho cuộc đấu tranh cách mạng của Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một bằng chứng cụ thể chứng minh việc phát hiện, sử dụng, bồi dưỡng nhân tài. Công lao đó thuộc về Hồ Chí Minh...
Bác Hồ luôn hiểu những người tài mà mình lựa chọn
PV: Từ cách dùng người của Bác Hồ, theo các vị khách mời, chúng ta có thể rút ra bài học gì?
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Tôi cho rằng bài học đầu tiên là về chiến lược nguồn nhân lực. Điều đó phải có tính toán kỹ lưỡng và lâu dài. Tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của ông Lê Quang Thưởng, tại sao Bác lại tin tưởng để chọn người? Điều quan trọng là phải xác định mục tiêu của cách mạng. 
Thời điểm đầu tiên của chúng ta là giành độc lập dân tộc. Bác biết tất cả người Việt Nam trước đó dù ở vị trí nào, lực lượng nọ kia thì đều là người Việt Nam, đều chung mục tiêu là lấy lại nền độc lập. Người dân Việt Nam vừa là động lực, vừa là mục tiêu, lựa chọn người vào Chính phủ lúc bấy giờ là phù hợp. 
Nhưng để cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, rồi đến xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có những con người lâu dài, cho cả tương lai, thì việc chọn người phải có tầm chiến lược. Từng giai đoạn cụ thể phải có sách lược để đào tạo, sử dụng con người cho hợp lý. 
Vấn đề đặt con người là trung tâm, nhân tố con người là quyết định sự thành công của cuộc cách mạng là mục tiêu đặt ra để lựa chọn và sử dụng con người. Đó là những người có đức, có tài, quan trọng là đặt họ đúng vị trí. 
Bác Hồ và Đảng ta đã dày công nghiên cứu và cuối cùng, xây dựng được đội ngũ cán bộ - những người học trò xuất sắc của Bác để lãnh đạo nhân dân ta làm những cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà như Điện Biên Phủ năm 1954, chiến thắng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, công cuộc đổi mới 1986, cương lĩnh xây dựng phát triển đất nước 1991, xây dựng Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013… 
Cả quá trình được xâu chuỗi, có định hướng chiến lược và gắn với mục tiêu của từng thời kỳ để lựa chọn người phù hợp, chứ không phải chắp vá, được đến đâu hay đến đấy. Tôi cho rằng đó là một bài học mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Ông Lê Quang Thưởng: Trước hết, bài học về vấn đề sử dụng con người là vấn đề hiểu người, nói như bây giờ, chúng ta có văn kiện đánh giá cán bộ. Ở thời đó, Bác Hồ hiểu những người mà mình lựa chọn – đó là những người yêu nước thực sự, là những người dân vì nước vào vị trí lãnh đạo. 
Thứ 2 là nhìn thấy nhân tố phát triển của người đó. Tuy người đó không được học hành, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp không qua trường quân sự nào nhưng Bác Hồ giao cho làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đó là bởi Bác hiểu con người này có kiến thức, có khả năng phát triển, có khả năng tập hợp đội ngũ để làm sự kiện lớn. Cái hiểu người và nhìn thấy nhân tố phát triển là rất quan trọng.
Thứ 3 là giao đúng việc cho từng người để thử thách, rèn luyện, đánh giá và cất nhắc. Cuối cùng là dựa vào nhân dân để tiến cử, giúp cho cán bộ được rèn luyện, trưởng thành. 
Đương nhiên, bài học của công tác quản lý cán bộ bây giờ là quản lý cán bộ. Bác Hồ cũng là người đảm nhiệm chức năng giao việc, đề bạt thì phải theo dõi, giúp đỡ và uốn nắn họ để họ phát triển. Đó là chức năng của quản lý cán bộ. 
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Tôi thấy hai ý kiến vừa rồi rất xác đáng. Nhưng sẽ thiếu sót nếu chỉ nhìn thấy việc chỉ tìm người tài đức để vào bộ máy lãnh đạo. Tôi thấy, ở Bác Hồ, ngoài việc tìm người giỏi vào lãnh đạo Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội thì Bác rất chú ý đến cán bộ khoa học để giúp sự phát triển lâu dài của đất nước. 
Ngày 31/12/1945, Chính phủ lâm thời đã ký sắc lệnh số 78, thành lập Ủy ban nghiên cứu kiến thiết đất nước gồm 40 đồng chí. Đến 14/1/1946, Bác Hồ lại ký bổ sung thêm 10 thành viên. Trong 50 người này, ngoài các thành phần lãnh đạo như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…nhưng phần lớn là trí thức yêu nước. Thậm chí, có cả vợ vua Bảo Đại.
Sau này, khi Bác đi thăm Pháp, có nhiều nhà trí thức đã trở về đất nước để tham gia kháng chiến cứu quốc và kiến thiết như GS Trần Hữu Thước, GS Võ Quý Huân… Theo tiếng gọi của Bác, nhiều người từ các nước khác cũng về như Bác sỹ Đặng Văn Ngữ, Nhà khoa học Lương Đình Của…Có khi không phải Bác trực tiếp gọi nhưng tư tưởng của Bác đã khiến họ trở về đất nước. 
Bài học có tính chất bao trùm là gắn sự nghiệp của mỗi người trong sự nghiệp của muôn người, của dân tộc. Mỗi người trí thức đều có thể đóng góp phần nào đó cho sự nghiệp. Đi với Bác Hồ, với Đảng, với nước một cách tự nguyện, không có tính toán gì về lợi ích kinh tế hay danh tiếng… mà đóng góp thiết thực vào sự nghiệp của dân tộc, khiến giá trị của họ thành trường tồn. 
Lịch sử dân tộc ta luôn coi trọng hiền tài.../.
"Chạy chức, chạy quyền là hệ quả của quản lý kém"
VOV.VN - Ông Lê Quang Thưởng: Theo tôi, chạy chức, chạy quyền là hệ quả của quản lý kém và là hệ quả của mặt trái cơ chế thị trường tác động vào hệ thống chính trị và công tác cán bộ.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Báo điện tử VOV vừa tổ chức cuộc tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Các vị khách mời tham gia chương trình gồm: PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); PGS.TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Ông Lê Quang Thưởng - Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương.
VOV.VN tổ chức tọa đàm trực tuyến “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vào chiều 1/9, tại Hà Nội.
Mời quý độc giả theo dõi tiếp phần 2 của cuộc tọa đàm này:
“Cán bộ trí thức, Đảng viên của chúng ta nhiều người giỏi lắm”
PV: Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”(viết tháng 10/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. 70 năm qua, những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội có vai trò tích cực của các cá nhân lãnh đạo, của vai trò tập hợp tinh hoa trí tuệ của Đảng để đưa ra các quyết sách đúng. Các vị khách mời nghĩ sao về nhận định này?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Có thể nói, quá trình định hình ra công tác cán bộ của Đảng thì Ban Tổ chức Trung ương đã tổng kết chặng đường 70 năm Đảng cầm quyền và suy nghĩ về cán bộ của mình. Nhưng xa hơn, phải nhìn lại lúc Bác Hồ đào tạo cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) để đi đến kết luận cán bộ là cái gốc của mọi công việc và huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Trải qua các thời kỳ, từ Cách mạng Tháng Tám giành độc lập năm 1945 cho đến 2 cuộc kháng chiến, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cả nước đều theo tư duy cũ. Khi xây dựng đất nước theo con đường đổi mới, nhận thức về Chủ nghĩa xã hội theo tư duy mới thì công tác cán bộ phải đáp ứng được đòi hỏi của mỗi một thời kỳ lịch sử.
Khái quát lại, tất cả các thời kỳ ấy đều có chung một vấn đề - “Cán bộ là yếu tố quyết định”. Cán bộ giỏi thì phong trào phát triển và thành công, cán bộ kém thì phong trào kém mà thậm chí có thể thất bại. Sau khi có đường lối đúng, mà cán bộ không đủ sức hoàn thành trách nhiệm lịch sử thì cách mạng khó mà thành công. Đó là bài học của lịch sử.
Tôi nghĩ rằng, trong tất cả chuẩn mực của cán bộ hiện nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói trong bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 11: Lần này, chúng ta lựa chọn cán bộ vào Trung ương, vào các cấp Ủy phải hết sức nghiêm túc để không lọt những người cơ hội về chính trị, thiếu bản lĩnh, không kiên trì lý tưởng mục tiêu, làm trái đường lối quan điểm của Đảng, phạm phải những vấn đề đạo đức, tham những và những vấn đề khác…
Vừa rồi, chúng ta đã nói một số bài học về lịch sử của công tác lựa chọn con người. Tôi thấy hiện nay vẫn có chiến lược về tập trung đào tạo nhân lực. Cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là nguồn nhân lực. Nếu nguồn nhân lực ấy có trình độ cao, ngoài bản lĩnh, phẩm chất đạo đức thì phải có trí tuệ trong yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hội nhập quốc tế, để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước.
Người lãnh đạo có tầm trí tuệ, mới có tư duy chiến lược và từ đó mới hoạch định và làm phong phú thêm nội dung cương lĩnh đường lối, mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của thời gian sắp tới, trong sự phát triển của đất nước. Còn đương nhiên, về mặt quy trình để lựa chọn cán bộ thì phụ thuộc vào mấy bước như đánh giá cán bộ khách quan, trung thực để lựa chọn người tài, rồi đưa vào quy hoạch, sau đó là đào tạo, bồi dưỡng một cách nghiêm túc, thứ 4 là sắp xếp cán bộ và cuối cùng là luân chuyển cán bộ.
Từ ngày xưa, chúng ta đã thấy “các cụ” luân chuyển cán bộ rất giỏi. Chúng ta mới có Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị khóa IX về luân chuyển cán bộ… Tất cả bước ấy, trong điều kiện hiện nay thì phải trở lại những bài học và kinh nghiệm của công tác cán bộ trong những năm vừa qua để suy nghĩ về đường hướng sắp tới.
Nếu công tác cán bộ của chúng ta thành công, lựa chọn nhân tài đúng đắn thì nhất định, bước phát triển của đất nước sẽ tốt đẹp hơn. Các cụ xưa đã tổng kết: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau nhưng hào kiệt không đời nào cũng có”, có điều chúng ta có tìm ra hay không.
Cán bộ trí thức, Đảng viên của chúng ta nhiều người giỏi lắm, lựa chọn và bố trí sử dụng thế nào cho thích hợp, tạo khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý hiện nay.
Ông Lê Quang Thưởng: Theo tôi, đường lối chính trị là số 1, đường lối tổ chức là số 2, rồi mới đến công tác cán bộ. Nhưng khi đã có 2 cái kia rồi, mà không làm tốt công tác cán bộ thì hỏng, không làm ăn được gì. Nên chúng ta mới đưa ra khái niệm, công tác cán bộ là cái gốc của công việc.
Để làm được điều này, chính là phải đi theo đường lối của Đảng, theo lời dạy của Bác Hồ về vấn đề dùng người, phát hiện nhân tài, lựa chọn con người và sử dụng, bồi dưỡng họ để họ trưởng thành, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó.
Chúng ta đã có thời kỳ dài – 70 năm có Đảng, đã đúc kết được những bài học khá quan trọng về công tác cán bộ. Mà Cách mạng Việt Nam thắng lợi bắt nguồn từ đường lối đúng và một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị, giáo dục và quản lý tốt. Cho nên, họ phát huy được. Cách mạng Tháng 8 thành công là một điển hình.
Lúc Cách mạng Tháng Tám, cả nước chỉ có 5.000 đảng viên, nhưng những cốt cán của Đảng lôi kéo hàng triệu quần chúng đi theo, làm nên sự nghiệp. Sau này, Đảng phát triển lên hàng triệu đảng viên, càng ngày càng mạnh lên. Trong đội ngũ đảng viên ấy, có bộ phận trở thành cán bộ của Đảng, của Nhà nước từ thấp đến cao. Họ thấm nhuần đường lối chính trị, đường lối tổ chức của Đảng và hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao phó.
Bây giờ, chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những vấn đề tích cực và tiêu cực đan xen nhau. Theo tôi nghĩ, không biết có chủ quan không nhưng vấn đề cán bộ bây giờ khó hơn. Việc đánh giá sao cho đúng là điều rất khó, từ quá trình làm việc, từ vị trí... Có nơi làm được, có nơi không. Chúng ta biết có nhiều cán bộ ở cấp tương đối cao mà tham nhũng lớn, đó là hậu quả của việc đánh giá, sắp xếp, đề bạt cán bộ quan liêu, không đúng.
Nhưng nói đi phải nói lại, sự nghiệp cách mạng của chúng ta phát triển chính là số đông trong đội ngũ của Đảng vẫn là người tốt. Giờ thấy tiêu cực nhiều quá mà cho rằng hỏng cả là không phải. Đảng lâu nay vẫn nói là một bộ phận cán bộ tiêu cực, gần đây lại nói là “một bộ phân không nhỏ”. Chỉ khi tin tưởng đại đa số vẫn là người tốt thì mới tin vào đường lối của Đảng.
Khi sử dụng nhân tài, Bác rất chú ý tới tư cách phẩm chất
PV: Nhiều năm qua, chúng ta đã thực hiện nhiều cuộc chỉnh đốn lớn trong Đảng, thực chất là chỉnh đốn tác phong, đạo đức, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên để loại trừ các yếu tố tiêu cực. Tuy nhiên, trên thực tế thì chúng ta vẫn để lọt vào hệ thống chính trị một số phần tử thoái hóa chính trị, tha hóa đạo đức. Thời gian gần đây có thể lấy ví dụ về trường hợp Dương Chí Dũng hay Nguyễn Xuân Sơn. Theo các vị khách mời, vì sao lại có hiện tượng đó? Phải chăng cơ chế lựa chọn, đào tạo, đề bạt cán bộ hiện nay có sơ hở?
Ông Lê Quang Thưởng: Những nhân vật vừa đề cập có thể lúc được đề bạt chưa bộc lộ, nhưng Dương Chí Dũng hay Nguyễn Xuân Sơn đều là những người được đào tạo, được thử thách từ dưới lên. Tuy nhiên, lựa chọn đúng nhưng bồi dưỡng, quản lý không tốt khiến cho những cán bộ này thoái hóa, biến chất, họ vì đồng tiền mà lung lay.
Hai nhân vật này tham nhũng, làm thất thoát tài sản lớn lắm. Đáng buồn có những công ty thất thoát hàng chục ngàn tỷ đồng, do những con người này thoái hóa mà chúng ta quản lý không tốt, không phát động được nhân dân giám sát họ đúng mức. Đó là lỗi của hệ thống, lỗi của những nhà lãnh đạo và có lỗi của những người làm công tác tổ chức cán bộ.
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Về công tác cán bộ, việc tuyển dụng, tuyển chọn nói chung tốt, nhưng xảy ra một số trường hợp thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật trở thành tội phạm thì cũng phải phân tích, đánh giá một cách khách quan.
Nói về cơ chế tuyển chọn cũng chỉ là một phần bởi vì những người khi tuyển dụng đều là những người tốt, quy trình tuyển chọn cán bộ của chúng ta ngày càng bài bản, chặt chẽ. Nhưng việc tu dưỡng, rèn luyện của cá nhân kèm theo đó là các điều kiện khách quan về mặt tổ chức cần phải có cơ chế xem xét, đánh giá, quản lý cán bộ như thế nào cho tốt.
Như Nguyễn Xuân Sơn từng là cán bộ cấp trưởng phòng nhưng được giao quyền rất lớn, được đi đàm phán, kí kết những hợp đồng hàng triệu USD… Đây là sơ hở trong công tác quản lý cán bộ khiến những người không có bản lĩnh, đạo đức tốt dễ dẫn đến sai phạm.
Điều đó khẳng định Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về công tác cán bộ là đúng đắn, chúng ta không thể chủ quan, lơ là việc phê bình, tự phê bình và công tác cán bộ phải là quá trình thường xuyên. Qua những vụ việc sai phạm đó, chúng ta phải rút kinh nghiệm.
Liên quan đến lĩnh vực doanh nghiệp, tập đoàn, cũng đáng tiếc là có thời kỳ khá dài thí điểm tổ chức các tập đoàn công ty của Nhà nước mà lại chưa có luật mà chỉ quy định bằng những văn bản cấp thấp là những Nghị định. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sai phạm.
Rút kinh nghiệm đó, sau khi có Hiến pháp 2013, về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để quản lý tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực kinh tế thì vừa bảo đảm phát huy nội lực, thu hút đầu tư mặt khác cũng phải quản lý chặt chẽ không dẫn đến thất thoát, gây thiệt hại cho kinh tế.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Tôi xin bổ sung một ý cũng rất quan trọng là trong điều kiện hiện nay xây dựng nhà nước pháp quyền cho nên bên cạnh kỷ luật của Đảng thì phải hết sức chăm lo tăng cường kỷ cương pháp luật của Nhà nước. Bởi vì, tất cả mọi cán bộ đảng viên dù ở cấp nào đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Đảng cũng phải hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật như trong Điều 4 Hiến pháp 2013 đã quy định. Theo tôi, phải siết chặt kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Mà bây giờ hệ thống pháp luật của ta so với thời kỳ trước đổi mới đã tăng lên rất nhiều trong tất cả các lĩnh vực để quản lý, giáo dục cán bộ, đưa cán bộ đảng viên vào hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Quay lại tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, cần nhắc lại ý rất quan trọng của Bác là tại sao trước khi thành lập Đảng, năm 1927, Bác đã nêu ra tư cách của người cách mệnh gồm 23 điểm, trong đó điểm “cần-kiệm-liêm chính” được Bác đặt lên hàng đầu. Ngoài ra còn có điểm “ít lòng ham muốn vật chất”.
Đến năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Bác lại nêu 12 điểm về tư cách của Đảng cách mệnh. Kết thúc 12 điểm đó, Người có một câu rất hay đó là: Muốn cho Đảng được vững bền/12 điểm ấy chớ quên điểm nào. Và trong thực tế cầm quyền, Bác đã lãnh đạo Đảng trong 24 năm cho nên Bác hiểu hết ý nghĩa của việc rèn giũa cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên nắm chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Bác là người rất tình cảm với cán bộ, nhưng Bác cũng rất nghiêm trong kỷ luật. Điển hình như vụ xử án Trần Dụ Châu – Cục trưởng Cục Quân nhu năm 1950 và sau này trong nhiều vụ khác, mặc dù rất thương cán bộ nhưng đã vi phạm pháp luật thì Bác đều xử lý nghiêm khắc. Đó cũng là bài học trong điều kiện hiện nay chúng ta phải siết chặt hơn kỷ cương pháp luật, trong đó có bài học về sử dụng, quản lý cán bộ.
Song cũng nên nhấn mạnh một điểm mà Bác Hồ rất quan tâm đó là mỗi cán bộ đảng viên phải tự rèn giũa mình. Bác cũng nêu ra rất nhiều điểm để mỗi tầng lớp, mỗi lực lượng có thể theo những điểm đó để tự răn mình. Vì dù có quản lý chặt chẽ đến mấy nhưng mỗi cán bộ, đảng viên không ý thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước, với nhân dân, với Đảng thì mọi quản lý kia cũng không hiệu quả.
Đối với con người, theo tôi, có 2 điều rất khó gần nếu không có bản lĩnh, không có đạo đức đó là tham muốn vật chất và tham muốn quyền lực. Vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên khi được giao trọng trách, như Bác Hồ đã căn dặn “dĩ công vi thượng”, tức là đặt công lên trên hết, không màng đến danh lợi, lợi ích riêng của mình.
Thực tế hiện nay, nhiều cán bộ không vượt qua được điều này, dẫn tới tình trạng lợi ích nhóm. Và từ lợi ích nhóm này hình thành nhóm lợi ích, nếu bị chi phối bởi cái đó thì sẽ không còn toàn tâm, toàn ý cũng như không còn đạo đức phẩm chất phục vụ cách mạng mà lao vào lo chức vụ, danh lợi cho mình.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng, khi sử dụng nhân tài, Bác rất chú ý tới tư cách phẩm chất, đặc biệt là những người có tính tự trọng cao. Làm thế nào bây giờ chúng ta có đội ngũ cán bộ toàn tâm toàn ý phục vụ mà không màng đến lợi ích vật chất?
Theo tôi, anh ở chức vụ này thì sẽ được hưởng lương, chế độ tương ứng thì cứ theo như vậy mà thực hiện, chứ đừng lợi dụng vị trí ấy để mưu lợi riêng thì sẽ tiêu cực. Đây là cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp, như Bác Hồ cũng từng nói: “đây là cuộc đấu tranh khổng lồ chống lại hư hỏng, tiêu cực, lỗi thời”. Cuộc chiến đấu này đòi hỏi nhiều lực lượng, phải có những giải pháp đồng bộ từ phía Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, đồng thời cũng từ phía cán bộ đảng viên, kể cả những người trí thức.
PV: Dư luận xã hội lâu nay vẫn xì xào khi đâu đó có chuyện sử dụng cán bộ theo kiểu "hậu duệ, quan hệ, tiền tệ, trí tuệ". Theo ông Lê Quang Thưởng, có chuyện này không và có dễ phát hiện ra không?
Ông Lê Quang Thưởng: Tôi khẳng định là có chuyện này. Có trường hợp có thể phát hiện được, có trường hợp khó phát hiện. Theo tôi, chạy chức, chạy quyền là hệ quả của quản lý kém và là hệ quả của mặt trái cơ chế thị trường tác động vào hệ thống chính trị và công tác cán bộ.
Cơ chế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn và phải làm như thế mới khiến cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta tiến lên được, nhưng đằng sau nó rất phức tạp, là mối quan hệ hàng hóa, vật chất làm lu mờ tai mắt của người cán bộ. Phải làm sao để khắc phục được mặt trái cơ chế thị trường trong công tác cán bộ, đây là một câu chuyện rất phức tạp nhưng chúng ta phải kiên quyết làm.
Theo tôi, Đảng và Nhà nước phải thường xuyên bổ sung chính sách, cơ chế để quản lý cho tốt, để khắc phục những lệch lạc, thiếu sót trong công tác lãnh đạo và quản lý. Bên cạnh đó, kỷ luật trong Đảng và Nhà nước phải thật nghiêm minh; những người có công phải được khen thưởng đúng mức; người có tội, có khuyết điểm phải xử lý nghiêm túc. Hiện nay, việc quản lý của ta chưa chặt chẽ, khen thưởng, kỷ luật chưa đúng mức, chưa nghiêm. Phát hiện tiêu cực chậm, phát hiện được nhưng xử lý cũng chậm và chưa công bằng nghiêm túc. Vấn đề này cần phải sửa.
Chúng ta không sợ kinh tế thị trường, đó là biện pháp để thúc đẩy nền kinh tế của chúng ta tiến lên.Phải biết phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường và phải cảnh giác, tìm mọi cách khắc phục mặt tiêu cực của nó.
PV: Thưa ông Đinh Xuân Thảo, nạn chạy chức, chạy quyền từng được nói tới nhiều trên một số kỳ họp Quốc hội. Một số đại biểu Quốc hội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội vụ về vấn đề này, tuy nhiên, câu trả lời nhận được chưa thỏa mãn. Ông có bình luận gì về vấn đề này?
TS Đinh Xuân Thảo: Nạn chạy chức, chạy quyền ở ta không phải là mới, cũng không phải ít được nhắc đến. Trên Nghị trường, đại biểu Quốc hội đã nêu ra và chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thậm chí cả Thủ tướng và Phó Thủ tướng. Thực tế chạy chức, chạy quyền là có. Người chạy kín đáo, không ai biết, nên dư luận nêu ra chỉ là có hiện tượng.
Khi đại biểu Quốc hội chất vấn về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trả lời “nếu đại biểu biết rõ trường hợp nào thì hãy nêu ra để chúng tôi xử lý”. Vấn đề là chỉ ra như thế nào là rất khó. Nhưng thực tế, để ngăn chặn việc này cần phải có một cơ chế đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc.
Ví dụ như Bộ Giao thông - Vận tải tổ chức thi tuyển công khai ở nhiều vị trí, người đủ điều kiện dự tuyển thể hiện được trình độ, năng lực tốt được cả Hội đồng đánh giá, như thế sẽ khắc phục được việc chạy chức, chạy quyền. Nếu không sẽ dẫn tới việc không công bằng, người được lựa chọn nhiều khi không xứng đáng.
Đó là một sự logic, người ta chạy chức phải mất một khoản tiền để có được vị trí đó nên khi đã vào được họ phải lo để kiếm lại bù đắp khoản tiền đã bỏ ra, còn thời gian đâu để nghĩ tới “chí công vô tư”. Nếu người có năng lực thực sự thì không đáng nói, nhưng người yếu kém cả về chuyên môn lẫn đạo đức sẽ gây hệ lụy rất nghiêm trọng.
Về dư luận đối với vấn đề lựa chọn cán bộ cũng có thể có. Nhưng tôi cho rằng đó không phải là hiện tượng phổ biến trong xã hội ta hiện nay. Bởi quy trình, công tác cán bộ, nhất là sau khi có Luật Công chức, Luật Viên chức, việc tuyển dụng thông qua hình thức thi tuyển cạnh tranh cũng có thể có tiêu cực, sơ sót, thiếu minh bạch nhưng đó chỉ là hiện tượng cá biệt. Dư luận nghĩ thế nhưng chúng ta cũng cần đánh giá khách quan.
Cơ bản đúng là hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa biến chất, tuy nhiên, đại đa số cán bộ đảng viên là tốt và chính nhờ vậy họ mới đưa được đất nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành nước phát triển trung bình về kinh tế; hội nhập kinh tế toàn diện, hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng rõ nét. Có được những điều này là do con người. Nếu nghĩ theo chiều hướng tiêu cực thì đất nước ta sẽ không được như hôm nay.
PV: Nạn chạy chức chạy quyền, bổ nhiệm cán bộ thiếu công tâm tuy không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng nó nguy hiểm như thế nào với sự tồn vong của Đảng và chế độ, thưa PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Điều đó đã được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 4. Nghị quyết này có đánh giá lại công tác xây dựng Đảng trong nhiều nhiệm kỳ trước. Nghị quyết cũng nhận định đa số cán bộ đảng viên là tốt, thì mới đưa đất nước vượt qua được những khủng hoảng, thách thức, đưa đất nước phát triển như hiện nay.
Nếu không có đội ngũ cán bộ đó làm sao có được đất nước như hiện nay. Cần bình tĩnh nhận định để đánh giá. Nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, còn nhiều khuyết điểm, trong những khuyết điểm ấy, Nghị quyết Trung ương 4 có nêu ra 3 vấn đề: Thứ nhất, là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên; Thứ hai là đào tạo cán bộ, đặc biệt cán bộ tầm chiến lược chưa được quan tâm đầy đủ; Thứ ba là trách nhiệm của người đứng đầu chưa được xác định rõ, thành tích thì nhận, khuyết điểm đẩy cho tập thể.
Nói về khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương 4 có nói tới một ý rất quan trọng đó là khuyết điểm này kéo dài trong nhiều nhiệm kỳ chứ không chỉ mới nảy sinh ở khóa 11. Những khuyết điểm kéo dài lại chưa được khắc phục, sửa chữa hiệu quả, và nếu không sửa chữa hiệu quả nó sẽ trở thành một thách thức đối với vai trò lãnh đạo và sự tồn vong của chế độ.
Từ khi chúng ta thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đến nay, lúc đầu cũng có phân vân, kiểm điểm rồi tự phê bình nhưng cũng không thấy “bộ phận không nhỏ” đâu, không thấy ai bị xử lý rõ ràng, nhất là cán bộ cấp cao. Sau đó mới đưa ra một số vụ tham nhũng nổi cộm trong xã hội để xử lý.
Tổng kết lại theo tài liệu của Ban Tổ chức Trung ương, từ năm 2012 cho đến hết 2014, ta đã xử lý tới 54.000 cán bộ, đảng viên bằng cả hình thức kỷ luật và pháp luật Nhà nước. Theo tôi, đó là một thể hiện của sự nghiêm minh của kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đương nhiên cũng không coi con số này là thành tích.
Nói thế để thấy rằng cuộc đấu tranh khắc phục tiêu cực, hư hỏng trong Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo tôi, phải trở lại luận điểm của Lenin đó là: Đảng cầm quyền có 2 nguy cơ lớn, một là sai lầm về đường lối, có thể dẫn tới thất bại (một số nước đã thất bại); hai là nguy cơ xa rời quần chúng, quan liêu tham nhũng. Ngoài ra, Lenin còn nêu ra 3 loại kẻ thù đó là: sự dốt nát, kiêu ngạo và hối lộ hay tham nhũng. Những người sáng lập ra CNXH, chế độ cộng sản đều đã có cảnh báo và Bác Hồ cũng đã nói nhiều tới những vấn đề đó, đặc biệt trong Di chúc.
Theo tôi, những khuyết điểm hiện nay, nếu nghiên cứu một cách cặn kẽ đầy đủ có thể thấy đó là những khuyết điểm trên đường phát triển, không tránh khỏi, đặc biệt, điểm xuất phát của ta từ một nước lạc hậu, chưa qua phát triển Chủ nghĩa tư bản, từ tác phong, tư duy, từ những tham muốn bản năng của con người. Vì thế cần phải bình tĩnh để gỡ từng bước, sửa chữa từng bước.

Tôi tin rằng nếu chúng ta kiên trì theo thực hiện tự phê bình trong Nghị quyết Trung ương 4 một cách bài bản và có phương pháp chắc chắn sẽ khắc phục được nhiều điều, chứ không chỉ riêng công tác cán bộ. Còn có nhiều vấn đề khác nữa đảm bảo cho công tác cán bộ, để người cán bộ vào vị trí lãnh đạo có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.