Tìm kiếm

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Để có lớp trí thức xứng đáng

           Thời thế tạo anh hùng thì cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất người trí thức. Nói rõ hơn là hoàn cảnh chính trị xã hội, là bản lĩnh, tài năng các nhà lãnh đạo quốc gia, và một phần chính yếu, là môi trường giáo dục đương thời. Cho nên tôi rất tán thành hãy bắt đầu bằng vấn đề giáo dục để bàn chuyện xây dựng lớp trí thức mới.
           Về triết lý giáo dục
           Sau nhiều năm Phần Lan nổi lên với những thành tựu kinh tế, khoa học, công nghệ làm cả thế giới khâm phục, người ta phát hiện ra cái gốc của sự thịnh vượng ấy là giáo dục. Ba phần tư thế kỷ qua, nước Mỹ đã chiếm vị trí số một trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ then chốt. Nếu nói trí thức là nói tài năng thì không đâu tài năng nở rộ nhiều như ở Mỹ. Nhiều người chúng ta bất bình, phẫn nộ chính đáng với một số chính sách nước lớn có khi quá tàn bạo của giới cầm quyền Mỹ, song vẫn chưa bao giờ hết ngưỡng mộ trí tuệ và tài năng của trí thức Mỹ mà những mầm mống thịnh vượng đã nảy nở từ những đại học đầu tiên khi Mỹ mới lập quốc. Đọc thư của Tổng thống Pháp gửi các nhà giáo Pháp, đọc bài diễn văn nhậm chức của bà Chủ Tịch ĐH Harvard, càng thấy rõ vấn đề trí thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục. Nước Pháp muốn khôi phục truyền thống văn hóa rạng rỡ của mình từ Thế kỷ Ánh sáng, nước Mỹ muốn tiếp tục dẫn đầu trong thế kỷ văn minh trí tuệ, đều thấy cần dựa vào trụ cột giáo dục. Mà trong giáo dục thì quan trọng trước hết là tư duy cơ bản về giáo dục, tức là triết lý giáo dục, đương lối giáo dục.
            Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức VN qua các thế hệ, tôi vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ trước– thời kỳ Tự lực Văn đoàn, trào lưu Thơ mới, có các nhạc sĩ Văn Cao, Đặng Thế Phong, có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh...  Hầu hết những trí thức này đều học trường Pháp ra, mà sao tinh thần dân tộc rất cao và năm 1945 tuyệt đại bộ phận họ đều đi theo cách mạng để chống lại thực dân Pháp. Điều đó tựa hồ mâu thuẫn với quan niệm phổ biến xưa nay là nhà trường thực dân chỉ cốt đào tạo ra những người làm tay sai cho thực dân.
             Trong khi đó, các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ một cách bài bản, lớn lên trong nền giáo dục thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp, hằng ngày được gián tiếp hay trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân vì dân vì nước... mà sao có vẻ như phẩm chất không được như ta kỳ vọng. Dường như có cái gì không thật, có cái gì chưa ổn lắm, cho nên gặp hoàn cảnh không thuận lợi thì bộc lộ nhiều nhược điểm. Chúng ta có biết bao tiến sĩ, giáo sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước hiện nay cũng có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không ít), rồi lại có cả những “bộ óc vĩ đại thế kỷ 21”, nhiều nhân vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiêu bậc đại trí. Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh?
             Đó là cái nghịch lý cần phân tích và lý giải khi bàn về giáo dục và đào tạo.
            Riêng tôi nghĩ rằng nền giáo dục, văn hóa Pháp mà thế hệ trí thức tiền bối 30-45 đã được hưởng thật sự là một nền giáo dục tiên tiến thời đó. Cái phần thực dân trong nền giáo dục ấy chỉ là cái vỏ ngoài do bọn thực dân áp đặt ở thuộc địa mà cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, còn cái phần nhân văn,  cái phần văn hóa cơ bản, cái phần thật sự là tinh túy trong triết lý giáo dục của nó thời đó thì ai tiếp thu được đều tốt cho họ, cho đất nước họ, cho nhân dân họ, không cứ là cho người Pháp, cho nước Pháp. Có lẽ chính vì nhìn thấy điều ấy mà Phan Chu Trinh đã sáng suốt đề ra: hưng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Giờ đây khi mà văn hóa, giáo dục đã lệch pha quá xa với kinh tế, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về đường lối, triết lý giáo dục, chứ không phải chỉ bàn chuyện nay hai không, mai năm không, v.v. Những việc này cũng cần làm để khởi động dạo đầu cho công cuộc cải cách, nhưng sa đà vào đó mà quên đi cái cốt lõi sẽ có tác dụng ngược lại.  
             Không thể máy móc vơ đũa cả nắm, nhưng có một sự thật là dường như phần lớn những cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên trừ những trường hợp hãn hữu, họ thường chỉ là những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời đó, và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhãn quan rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành nghề hẹp của mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển chuyên môn, và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề xã hội, văn hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của mình. Mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, ít khả năng và cũng không thích thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức VN.  Chưa bao giờ trong xã hội ta có nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà nhìn khắt khe một chút để biết người biêt ta, còn hơn nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch.
            Những sai lầm làm tha hóa giáo dục.
            Trở lại vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất là sự tha hóa trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng nét chính của khủng hoảng ấy là sự tha hóa, biến chất. Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo dục. Có nhiều nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba sai lầm lớn mà tôi gọi là sai lầm hệ thống trong quản lý giáo dục.
          1. Chính sách đối với người thầy. Đó là sai lầm đầu tiên và tai hại nhất do quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, là đúng. Nhưng từ đó đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là do tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thể nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái lỗi hệ thống cơ bản này.
           2. Tập trung tất cả việc dạy và học vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để bảo đảm kết quả học tập vững chắc và thực chất thì dồn hết cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất hình thức mà thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN: gần thi mới lo học, học đối phó, học nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Nghĩa là tư duy có thay đổi gì đâu, hai mươi năm trời, tốn bao công nghiên cứu, cuối cùng trở lại gần như điểm xuất phát, dưới một hình thức có vẻ mới để che dấu một phương pháp cổ lỗ. Lại còn chuyện thi trắc nghiệm, thi tự luận. Người ta thi trắc nghiệm với một mục đích khác, ta không nghiên cứu kỹ, đưa ra áp dụng đại trà vào thi tốt nghiệp THPT trong khi trình độ chuyên nghiệp về kiểu thi này còn chưa bảo đảm, cho nên gây tốn kém và làm khổ cả học sinh lẫn thầy giáo. Rồi đùng một cái cấm các trường không được áp dụng hình thức trắc nghiệm khi thi học kỳ, làm cả thầy và trò hoang mang, không hiểu giáo dục là cái gì mà có thể quản lý tùy tiện như thế. Đem việc học phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ yếu, đến mức muốn hiểu thực chất giáo dục VN như thế nào chỉ cần quan sát hoạt động của nhà trường và xã hội trong mùa thi. Từ kiểu thi nhiêu khê đẻ ra những dịch vụ kỳ lạ hiếm thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v. Cho nên chừng nào còn duy trì kiểu học và thi này thì xã hội còn phải trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Chưa kể nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì lãng phí lên tới con số khủng khiếp, bình thường đã khó chấp nhận, với tình hình kinh tế khó khăn như lúc này càng khó chấp nhận hơn. Nhiều nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi cử” của họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục gì.
          3. Chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay với các nước trong khu vực. Đây chính là bệnh thành tích, chứ không là gì khác. Phát triển số lượng thì dễ, nhất là khi người dân còn khát học tập như trong xã hội ta. Chỉ đảm bảo chất lượng mới khó, vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ báo cáo thành tích. Trên đã vậy thì làm sao chống được bệnh thành tích ở dưới. Trong hoàn cảnh ấy mà có người còn bênh vực bệnh thành tích, viện lẽ chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là xa xỉ (!), thì thật không hiểu nổi ta muốn phát triển giáo dục và khoa học theo kiểu nào. Nguy hại là căn bệnh này nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, công nhận GS, PGS. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trình nghiên cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, đánh giá các đại học... phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ích riêng cho từng nhóm thay vì phục vụ sự nghiệp chung. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực quốc tế thể hiện trong mọi chủ trương xây dựng đại học, cho đến gần đây nhất vẫn rất chủ quan. “Điếc không sợ súng” đó là căn bệnh cố hữu của ngành giáo dục.
          Tất cả các sai lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần dần biến chất, xuống cấp, xa rời tất cả những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Xu hướng tha hóa ấy phát triển có nguy cơ đẻ ra một nền giáo dục phản giáo dục.  
                                                                                     GS Hoàng Tụy

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

Xây đắp nền tảng nhân văn cho thế hệ tương lai

          Trong một thời gian dài “lấy lòng mong muốn thay cho thực tế…bất chấp quy luật của lịch sử, muốn đốt cháy giai đoạn…thiếu sáng suốt trong nhận thức và hành động, trong lý luận và thực tiễn” (Phạm Văn Đồng), chúng ta đã sao nhãng, thậm chí là coi thường việc vun đắp cái nền tảng của quá trình “trồng người”, mà hệ lụy của nó là những suy thoái của giáo dục và đào tạo mà chúng ta đang phải gánh chịu hôm nay!
         Xin chỉ gợi ra đây một vấn đề: chỉ tập trung vào giáo dục lý tưởng mà lơ là xây đắp cái nền tảng nhân văn trong định hình nhân cách cho thế hệ trẻ.
        Giáo dục lý tưởng đương nhiên là cần thiết, song không nên cho rằng lý tưởng của Lý Tự Trọng của thế kỷ XX là cao hơn lý tưởng của Trần Quốc Toản thế kỷ XIII. Và lại càng phải thấy cho rõ phạm trù lý tưởng gắn liền với mục đích và ý nghĩa của cuộc sống con người. Tùy thuộc vào sự nhận thức về mục đích và ý nghĩa cuộc sống của từng người, từng nhóm xã hội mà có sự định hình lý tưởng.
         Khi Trần Quốc Toản ghi trên lá cờ của mình sáu chữ “Phá cường địch, báo Hoàng ân” thì đó là sự thể hiện lý tưởng trung quân ái quốc của chàng tuổi trẻ quý tộc đời nhà Trần. Đừng nghĩ rằng lý tưởng “trung quân ái quốc” là thấp hơn lý tưởng “trung với nước, hiếu với dân”, mà không thấy mỗi giai đoạn lịch sử có những đòi hỏi mang tính đặc thù. Bởi lẽ, như Các Mác đã giải thích rất đúng: “mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó… Một khi cuộc sống đã vuợt qua một thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai đoạn này bước sang giai đoạn khác, thì nó cũng bắt đầu bị những quy luật khác chi phối."
          Chính vì thế, lý tưởng phải được hình thành, củng cố và phát huy sức mạnh của nó trên nền tảng của chủ nghĩa nhân văn. Thiếu cái nền tảng đó, lý tưởng sẽ thiếu mất tính bền vững và và chiều sâu nhân bản. Sẽ quá dài dòng để phải nhắc lại một thời mà chủ nghĩa nhân văn bị phê phán do chịu ảnh hưởng của giáo điều Maoít, chỉ coi trọng “giai cấp tính”, đặt vấn đề “nhân tính” trong cái lăng kính giai cấp để chịu sự chi phối của “giai cấp tính”.
          Hệ lụy của nó thì chắc không phải kể ra đây nữa. Khi chỉ chuyên chú giáo dục lý tưởng theo lăng kính “ý thức hệ”, người ta dễ dàng bỏ qua những phẩm chất “người” trong quan hệ giữa người và người từ trong gia đình, cộng đồng xã hội nhỏ nhất, đến nhà trường, một cộng đồng lớn hơn của tuổi trẻ, và hàng xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn có nhau” cho đến cộng đồng lớn là xã hội. Người ta không thấy được rằng, nếu thiếu một nền tảng nhân văn vững chắc được hun đúc từ tấm bé, lý trí cũng như tình cảm của con người dễ bị chao đảo, định hướng của hành vi do vậy cũng bị nhiễu loạn, bị xáo trộn.
           Sự suy thoái đạo lý xã hội cần tìm nguyên nhân từ những điều vừa nói. Hơn nữa, nền tảng nhân văn đang được bồi đắp thêm trong bối cảnh của nền văn minh mới, nền văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI. Trong nền văn minh đó, “sự thay đổi vĩ đại nhất sẽ là sự thay đổi về tri thức-về hình thức và nội dung, về ý nghĩa của tri thức, về trách nhiệm của tri thức và về những đặc điểm của con người có giáo dục”.(1) Để có được “con người có giáo dục” với những đặc điểm mang tính thời đại ấy, nhiệm vụ của hệ thống giáo dục và đào tạo sẽ càng nặng nề thêm.
            Trong bài viết đăng trên tạp chí Tia sáng “Để có lớp trí thức xứng đáng”, giáo sư Hoàng Tụy đã thẳng thắn chỉ ra những bất cập của một bộ phận không nhỏ những trí thức được đào tạo trong thời gian qua, do “…thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên trừ những người ý thức được điều đó, còn số khá đông thường chỉ là những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời đó, và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhãn quan rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành nghề hẹp của mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển chuyên môn, và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề xã hội, văn hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của mình.
           Hầu như mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, it khả năng và cũng không thich thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hâu mvẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại.
          Chỉ ra căn bệnh của một bộ phận trí thức đang thực hiện sứ mệnh giáo dục và đào tạo, nói rộng hơn, sứ mệnh trau giồi văn hóa, chuyển tải văn hóa cho thế hệ trẻ, cũng là để gióng lên tiếng chuông cảnh báo đối với những ai đang gánh trên vai mình sứ mệnh nặng nề đối với đất nước. Cần hiểu rằng, giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở bậc đại học, nói như bà Drew G. Faust, Hiệu trưởng Đại học Harvard trong diễn từ nhậm chức ngày 12.10.2007 “cái học ở đại học” là “cái học đúc khuôn cho cả đời người, cái học chuyển đạt gia tài của ngàn năm trước, cái học tạo ra vóc dáng cho tương lai”.
           Cam kết của đại học là vô thời hạn, thành tựu không tiên đoán được, không đo lường được, nỗ lực làm việc không phải để tăng sức cạnh tranh mà là để “định nghĩa cái gì đã làm chúng ta là người qua bao nhiêu thế kỷ“, cái gì giúp ta “hiểu ta là ai, từ đâu đến, đi về đâu và tại sao”. Đi tìm ý nghĩa như vậy là một hành trình bất tận, luôn luôn đặt lại vấn đề, luôn luôn gặp giải thích mới, không bao giờ bằng lòng với những khám phá đã có, câu trả lời này chỉ gợi lên câu hỏi tiếp theo. (2)
          Cùng với sự thiếu hụt một văn hóa phổ quát do sự lạc hậu của hệ thống giáo dục, sự đứt gãy của văn hóa truyền thống đang tác động mạnh đến đời sống tinh thần của thế hệ trẻ. Đó là chất xúc tác làm cho một bộ phận đáng kể thanh thiếu niên đứng trước nguy cơ xuống cấp về đạo đức, xa rời các giá trị truyền thống của dân tộc. Nói đến tuổi trẻ là nói đến hoài bão, nói đến ước mơ và hành động, thế mà có một bộ phận không nhỏ những người trẻ tuổi, trong đó có những sinh viên, đang là lực lượng chủ lực sẽ bổ sung vào đội ngũ trí thức, lại thiếu những năng lực cần thiết để đương đầu với những biến động đầy phức tạp của xã hội hiện đại khi thiếu khả năng phê phán, yếu năng lực tư duy sáng tạo để tìm ra con đường giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Và nói đến tuổi trẻ, không thể không nói đến thanh thiếu niên nông thôn với cuộc sống của phần lớn làng quê, nơi kinh tế có phần nào cải thiện, nhưng lối sống chưa mấy đổi thay, đời sống văn hóa hiện nay hết sức nghèo nàn, lại đang hứng chịu những cặn bã của văn minh đô thị.
          Vực dậy một nền văn hóa khó gấp bội phần vực dậy một nền kinh tế. Đừng quên rằng, văn hóa không phải là mỳ ăn liền, văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu. Việc ăn tươi nuốt sống những sản phẩm văn hóa không tương thích với môi trường sống và phong tục tập quán sẽ gây độc hại nhiều hơn là thêm dưỡng chất. Tuổi trẻ đang cần những dưỡng chất đến từ một nền văn hóa mà trong đó, những tinh hoa của truyền thống dân tộc được thăng hoa trong quá trình chọn lựa và tiếp thu những thành tựu của văn hóa và văn minh của thời đại nhằm tăng thêm sức đề kháng chống trả những cặn bả của nền văn minh mà người ta đã thải loại ra.
         Để kết thúc bản tham luận đã quá dài, xin dừng lại với một thông điệp của M Gorky, nhà văn Xô viết từng một thời chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong các giáo trình văn học và lý luận văn học giảng dạy ở bậc đại học của ta. Trong Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja Žizn (Đời Mới) những năm 1917-1918, Gorky đã cảnh báo: “Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần." … Vì vậy mà: “Dân tộc này phải còn nỗ lực rất nhiều đế đạt đến ý thức về bản sắc và nhân phẩm của nó. Dân tộc này còn phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi ”. Cho nên, văn hào Xô Viết ấy đã quyết liệt mà rằng: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”
           Tôi tin rằng, thông điệp ấy không chỉ gửi riêng cho người Nga, và đối với chúng ta, những người đang có nhiều suy tư về con người Việt Nam, đối tượng của giáo dục và đào tạo, nội dung của thông điệp đưa ra ngót một thế kỷ dường như vẫn còn nguyên tính thời sự!

                                                                                                                GS Tương Lai

Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa sau năm 2015

           Đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa của Bộ GD&ĐT sau năm 2015 đã có nhiều ý kiến khác nhau, TS Giáp Văn Dương - Đại học Liverpool (Anh) đã có bài viết đăng trên tạp chí Tia Sáng ngày 20/6/2011. Toàn văn bài viết như sau:
         Một sản phẩm của tư duy giáo dục lạc hậu
                                                                                                                  Giáp Văn Dương
          Dư luận đang sửng sốt với Đề án “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sửng sốt không phải chỉ vì số tiền dự toán quá lớn: 70 nghìn tỷ đồng, mà còn vì chất lượng đề án quá thấp, thể hiện tư duy giáo dục lạc hậu.
          Đọc bản đề án 32 trang mang tên “Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015” của Bộ GD&ĐT, bất cứ người quan tâm đến giáo dục nào cũng không khỏi ngỡ ngàng về sự sơ sài của nó. Nếu không tính đến trang bìa, phần mục lục và sơ đồ phụ lục đính kèm thì bản đề án này chỉ có vẻn vẹn 29 trang đánh máy khổ A4. Tuy nhiên, phạm vi tác động của nó lại vô cùng lớn. Nó tác động trực tiếp đến gần 20 triệu học sinh và giáo viên trên toàn quốc. Số kinh phí dự trù để triển khai đề án cũng lên đến mức kỷ lục: 70 nghìn tỷ đồng!
         Bao biện
         Một trong những nội dung quan trọng của đề án là phần II: “Đánh giá việc xây dựng và triển khai chương trình sách giáo khoa hiện hành”. Phần này chia thành 6 tiểu mục, chiếm dung lượng khoảng 7 trang khổ A4. Tất cả các đánh giá trong mỗi tiểu mục này đều tuân theo mô-típ “ưu điểm & hạn chế” tối giản - tức là theo kiểu khen một tí, chê một tí - mà không dựa trên bất kỳ một cứ liệu khoa học nào. Với các đánh giá mang tính khoa học, bên cạnh phần thuyết minh thì con số, bảng biểu, hình vẽ… đóng vai trò linh hồn của đánh giá. Nhưng rất tiếc, những linh hồn này đã không hề xuất hiện. Cho nên, phần đánh giá này thực chất chỉ là phần bao biện vòng vo của các tác giả đề án.
           Để có hình dung cụ thể, xin nêu ví dụ sau: Trong phần đánh giá về chương trình và sách giáo khoa hiện hành, đề án cho rằng: “Xét về tổng thể, quá trình xây dựng chương trình được qui định khá đầy đủ, rõ ràng và hợp lý”, nhưng “ các quan điểm định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được xác định muộn (1999), không có ngay từ khi chương trình tiểu học” và “còn thiếu một số công trình nghiên cứu cần thiết cho việc phát triển chương trình phổ thông”. Như vậy, quá trình xây dựng chương trình đã được tiến hành khi chưa có quan điểm định hướng đổi mới, chưa có đủ cơ sở khoa học - tức là làm mà không biết đang làm gì, và tại sao lại làm như vậy.
         Chính kiểu đánh giá khen một tí, chê một tí như thế này đã thể hiện sự không nghiêm túc của các tác giả đề án, thực chất chỉ là một sự bao biện hoa mỹ có thể viện dẫn bất cứ khi nào bản đề án cần đến. Vì thế sẽ không ngạc nhiên khi những bao biện ở phần II này đã phát triển trở thành các lập luận tự mâu thuẫn trong những phần còn lại của nội dung đề án.
        Sáo rỗng
        Nếu xem xét bốn nguyên tắc đổi mới chương trình, sách giáo khoa thì thấy chúng hết sức chung chung, dùng đâu cũng được, cho bất kỳ đề án nào cũng được: quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật; đảm bảo kế thừa những thành tựu của Việt Nam và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm quốc tế, đảm bảo tính thống nhất toàn quốc và linh hoạt vùng miền, khả thi, phù hợp với đối tượng học sinh; đảm bảo tính đồng bộ về nội dung, phuơng pháp dạy học phương thức đánh giá kết quả học tập. Xin hỏi, có đề án nào lại không quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật, có đổi mới nào lại không mang tính kế thừa, có đề án nào khi đang xin xét duyệt lại tự nhận là không khả thi, và đề án giáo dục thì đương nhiên phải phù hợp với học sinh. Cho nên, tất cả những thứ liệt kê trong bốn nguyên tắc này thực chất đều là những sáo ngữ vạn năng, dùng đâu cũng được, dùng đâu cũng đúng, không hy vọng mang lại bất kỳ ý nghĩa gì mới cho đề án.
         Tương tự như các nguyên tắc đổi mới nêu trên, các định hướng đổi mới, như: điều chỉnh hài hòa, cân đối giữa “dạy chữ”, “dạy người” và từng bước “dạy nghề”; nội dung giáo dục mang tính cơ bản, hiện đại, thực tiễn giúp hình thành phát triển năng lực học tập – cũng không hề mới. So sánh với chương trình, sách giáo khoa hiện hành “đã chú ý giáo dục toàn diện các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kỹ năng cơ bản và hướng nghiệp” thì chương trình, sách giáo khoa dự định hướng tới này thực sự là một bước tụt lùi.
        Trong những định huớng còn lại, ngoài việc diễn giải hết sức sơ sài ý định tiếp cận phát triển năng lực thì đề án không cho thấy bất cứ một điểm nào mới. Nếu tước bỏ cụm từ “phát triển năng lực” ra khỏi đề án thì toàn bộ những định hướng chính này do đó nội dung của toàn bộ đề án, trở nên hết sức vô nghĩa, và phần nào vô duyên.
        Tự mâu thuẫn
        Chính vì sự không nghiêm túc trong việc xây dựng đề án, và sự mù mờ, tối nghĩa của các khái niệm và bản thân phương pháp tiếp cận được cho là mới của đề án, đã dẫn đến những mâu thuẫn nội tại của nó. Đây là điều tối kỵ của bất cứ đề án hay lập luận có tính khoa học nào.
        Đề án cho rằng nội dung chương trình phải là “những tri thức cơ bản của nhân loại, những giá trị lịch sử, văn hóa tinh hoa của dân tộc, những thành tựu khoa học tiên tiến, hiện đại của thế giới”, nhưng “thiết kế nội dung dạy học phải theo hướng giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành”. Hai tiêu chí này rõ ràng là trái ngược nhau: một bên thì cố gắng ôm đồm mọi tinh hoa của dân tộc và thế giới cả trong lịch sử và hiện đại, còn bên kia thì lại chủ trương giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành. Trên thực tế, điều này còn mâu thuẫn với điểm “độc sáng” của đề án là tiếp cận theo hướng phát triển năng lực, vì nếu triển khai những nội dung này thì về thực chất đề án sẽ được triển khai theo hướng trang bị kiến thức của cách tiếp cận nội dung - thủ phạm làm cho chương trình và sách giáo khoa hiện hành trở nên bất cập đến mức cần phải thay thế như đánh giá trong phần II của đề án - do đó, những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành sẽ được lặp lại trong chương trình, sách giáo khoa mới.
           Đi từ tiếp cận nội dung, trong đó chú trọng dạy kiến thức, sang tiếp cận năng lực, trong đó chú trọng phát triển năng lực cá nhân của học sinh, đòi hỏi một nguồn học liệu rất đa dạng và một tư duy linh hoạt, biện chứng, khuyến khích sự đa dạng. Nhưng việc lựa chọn chỉ có một chương trình, một bộ sách giáo khoa duy nhất dùng chung cho cả nước lại mâu thuẫn với chính mục tiêu phát triển năng lực của học sinh.
          Sự tự mâu thuẫn này còn thể hiện ở các định hướng xây dựng một chương trình, biên soạn một bộ sách giáo khoa duy nhất nhưng lại phải linh hoạt vùng miền. Đảm bảo thống nhất tòan quốc nhưng các địa phương lại được quyền biên soạn các tài liệu giáo khoa hỗ trợ.
         Những phân tích trên còn chưa xét đến sự mâu thuẫn trong toàn bộ quy trình làm việc, như xây dựng chương trình trước khi xác định mô rõ hình giáo dục và trước cả việc ban hành chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020, như giới chuyên gia đã chỉ ra trong những ngày qua.
         Sở dĩ xảy ra các mâu thuẫn này là do tư duy của Bộ GD&ĐT về giáo dục nói chung, và tư duy về sách giáo khoa nói riêng, đã lạc hậu và cần phải thay đổi.
         Mập mờ
         Với những đề án có kinh phí lớn như thế này, đặc biệt kinh phí phần lớn lại là vốn ngân sách, thì theo qui định của pháp luật, cần phải trình lên Quốc hội. Nhưng dường như qui trình này đã không được tôn trọng.
         Trong đề án thể hiện ở sự thiếu rõ ràng về tiêu chí “đổi mới căn bản và toàn diện”. Đành rằng đã đổi mới thì ai cũng muốn đổi mới căn bản và toàn diện, nhưng căn bản và toàn diện như thế nào thì không nêu, nên nếu tước bỏ cụm từ “căn bản và toàn diện” này đi thì nội dung thực sự của đề án không hề thay đổi, vì trên thực tế, cụm từ này chỉ được sử dụng làm đồ trang trí cho đề án chứ không mang một nội dung cụ thể nào.
         Cách tiếp cận theo phát triển năng lực, điểm “độc sáng” của đề án, lại cũng hết sức thiếu rõ ràng. Những năng lực này là năng lực gì, vì sao phải có nó, và có ở mức độ nào, cũng không hề được làm rõ. Cụm từ “tiếp cận theo phát triển năng lực” vì thế cũng chỉ có giá trị trang trí chứ không mang nội dung cụ thể nào.
         Sở dĩ người viết mạnh dạn đề xuất lược bỏ hai cụm từ “đổi mới căn bản và toàn diện” và “phát triển năng lực”, vì chúng thực sự không mang một nội dung cụ thể nào. Đã đổi mới thì bao giờ chẳng kêu gọi đổi mới căn bản và toàn diện; còn giáo dục theo hướng phát triển năng lực thì lạy giời, chương trình giáo dục nào chẳng hướng tới tiêu chí đó, trừ phi Bộ GD&ĐT tổng kết cho thấy chương trình giáo dục và sách giáo khoa hiện hành đang hủy diệt năng lực của học sinh và cần phải thay đổi.
        Tối nghĩa
        Lý do ra đời, và do đó nội dung mấu chốt, của đề án sách giáo khoa này là lập luận sau: “chương trình, sách giáo khoa hiện hành được xây dựng theo hướng tiếp cận nội dung nên thiên về trang bị kiến thức khoa học bộ môn”; còn chương trình, sách giáo khoa xây dựng theo đề án này sẽ “tiếp cận theo hướng phát triển năng lực”, chẳng hạn “năng lực nhận thức, năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực làm việc nhóm, năng lực xã hội, năng lực thích ứng với môi trường…”
         Đây có thể coi là điểm mới duy nhất của đề án này. Nếu không có nó, đề án không khác gì so với những đề án thay đổi chương trình, sách giáo khoa trước đó. Nhưng rất tiếc, sự độc sáng này lại phần nhiều là “trò chơi ngôn ngữ” hơn là nội hàm khoa học mà nó có. Giả sử thay từ “năng lực” bằng “kỹ năng” thì sao? Trong văn cảnh mà đề án đề cập, khái niệm “năng lực” không khác gì so với khái niệm “kỹ năng”, ví dụ: năng lực làm việc nhóm, năng lực xã hội, năng lực thích ứng với môi trường… chính là kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng xã hội, kỹ năng thích ứng với môi trường. Nhóm kỹ năng này được nhiều nhà nghiên cứu gọi với một tên khác phổ biến hơn là kỹ năng mềm, kỹ năng sống…
          Bằng thủ thuật đổi từ đồng nghĩa trong cùng văn cảnh như thế, cách tiếp cận của đề án sẽ trở thành: tiếp cận theo cách phát triển kỹ năng. Nhưng từ xưa đến nay, có chương trình giáo dục nào không nhằm hướng tới phát triển kỹ năng của học sinh? Thực tế, các chương trình giáo dục đều nhắm đến phát triển tổng thể kỹ năng, tri thức, đạo đức và thể chất, chứ không chỉ nhằm phát triển kỹ năng đơn thuần.
            Một cách tương tự, nếu thay chữ “năng lực” bằng “kiến thức” thì kết quả thu được cũng gần như trên. Lý do là năng lực và kỹ năng, kiến thức không bao giờ tách rời nhau. Một người không có năng lực chính là một người thiếu kỹ năng và thiếu kiến thức. Điều đó cho thấy, “điểm sáng” duy nhất của đề án không được sáng như các tác giả nghĩ, mà thực ra, hết sức mù mờ. Chỉ bằng một động tác thay những cụm từ đồng nghĩa, toàn bộ giá trị mới của đề án đã gần như bị loại bỏ.
           Giả sử với sự mù mờ trong khái niệm như thế, những người soạn chương trình và sách giáo khoa sẽ gia công tập trung vào phát triển các kỹ năng và kiến thức nói trên, thì chương trình và sách giáo khoa mới sẽ còn kém chất lượng hơn chương trình và sách giáo khoa hiện hành rất nhiều. Vì như đánh giá trong phần I và phần II của đề án: “chương trình và sách giáo khoa hiện hành đã được xây dựng và biên soạn theo hướng chuẩn hóa, vừa đáp ứng yêu cầu cập nhật, hiện đại, vừa bám sát nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và theo một quy trình khá thống nhất, chặt chẽ, góp phần từng bước đổi mới sự nghiệp giáo dục của đất nước” và có ưu điểm “chú ý giáo dục toàn diện các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản và hướng nghiệp”, thì một chương trình và sách giáo khoa mới chỉ nhắm đến phát triển các năng lực đơn thuần sẽ là một bước lùi về mặt chất lượng.
           Trên thực tế, chương trình và sách giáo khoa hiện hành cũng đã được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực chứ không chỉ tiếp cận nội dung thuần túy. Ví dụ chương trình tiểu học yêu cầu: “Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người. Có kỹ năng cơ bản về nghe nói, đọc, viết và tính toán. Có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh…”, thì rõ ràng chương trình này hướng đến phát triển cả tri thức và năng lực của học sinh tiểu học.
           Vì thế, những khái niệm quan trọng nhất của đề án, lẽ ra cần phải làm rõ trước hết, thì lại trở nên rất tối nghĩa, được sử dụng với mục đích trang trí hơn là mang những nội dung khoa học thực sự.
           Những thất bại trong cải cách giáo dục trong mấy chục năm qua đều có một nguyên nhân là tư duy giáo dục đã lạc hậu. Đó là tư duy ôm đồm, áp đặt, muốn kiểm soát toàn bộ. Nhưng tiếc rằng, chính tư duy này lại là sợi dây xuyên suốt bản “Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015” lần này. Vì thế, để tránh một thất bại được báo trước và tiết kiệm một nguồn nhân lực, vật lực khổng lồ - 70 nghìn tỉ đồng với sự tham gia của nhiều Bộ, Ban, Ngành, chính quyền địa phương - cũng như để không đẩy giáo dục lạc hậu thêm 11 năm nữa, tương ứng với thời gian thực hiện đề án, thì cách tốt nhất là hủy bỏ đề án này và triển khai việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa theo một tư duy hoàn toàn khác, đã được kiểm chứng thành công ở các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
          Vòng luẩn quẩn?
          Theo đánh giá của đề án, một trong những lý do để thay đổi chương trình, sách giáo khoa hiện hành vì “các quan điểm và định hướng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được xác định muộn (1999), không có ngay từ khi xây dựng chương trình tiểu học. Nhưng sai lầm này dường như đang được lặp lại ở mức độ cao hơn. Trong khi chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 vẫn còn đang soạn thảo, và chưa biết đến bao giờ mới ban hành, thì đề án sách giáo khoa này, với tư cách là một phần của chiến lược giáo dục, lại được lên kế hoạch triển khai trước. Mô hình giáo dục phổ thông cũng chưa được làm rõ trong khi nội dung của nó lại được đầu tư xây dựng trước. Như vậy bài học về việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa, dù đã được viết thành một tiểu mục riêng trong đề án này, trên thực tế không hề được đoái hoài đến.
            Nếu để ý, chương trình sách giáo khoa hiện hành được triển khai theo Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 9/12/2000, đến nay được 11 năm. Lần này, đề án cũng kéo dài trong 11 năm, 2011-2022. Những mốc thời gian 10-11 năm này tương ứng với 2 nhiệm kỳ làm việc. Dư luận vì thế sẽ có quyền đặt câu hỏi, liệu có tư duy nhiệm kỳ nào chi phối việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa này?
          Viễn cảnh đáng sợ đó hoàn toàn có thể xảy ra, vì ngay như trong bản đề án này đề cập: Việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa lần này chỉ là bước “chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến tới biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa trên cơ sở một bộ chương trình thống nhất trên cả nước”.
          Câu hỏi đặt ra là: Tại sao Bộ GD&ĐT không triển khai ngay một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa như các nước? Có cần thiết phải chuẩn bị lâu dài và tốn kém như vậy không?
          Niềm tin có còn?
           Bộ chương trình, sách giáo khoa hiện hành được Bộ GD&ĐT đánh giá là “lần đầu tiên trong lịch sử, bộ chương trình đã được xây dựng theo xu hướng quốc tế” và “đã chú ý giáo dục toàn diện các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản và hướng nghiệp”.
           Một chương trình và sách giáo khoa ưu tú như vậy, được biên soạn theo một quy trình “được quy định khá đầy đủ, rõ ràng, hợp lý” như vậy, mà chỉ sau giai đoạn hoàn thiện 5 năm (2004-2006) đã phải biên soạn lại theo một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Người dân sẽ đăt câu hỏi: Những người tham gia biên soạn chương trình, sách giáo khoa hiện hành, liệu có còn đủ năng lực để tham gia biên soạn chương trình, sách giáo khoa mới hay không, khi sản phẩm của họ chỉ 5 năm sau đã phải sửa đổi toàn diện? Và trên hết, Bộ GD&ĐT, tác giả của chương trình, sách giáo khoa hiện hành có còn đáng tin để triển khai đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa lần này?
           Sở dĩ vấn đề chương trình, sách giáo khoa nói riêng và cải cách giáo dục nói chung gặp thất bại liên tiếp trong thời gian vừa qua, dẫn đến việc giáo dục mỗi năm đều trở thành vấn đề nóng của xã hội, là do tư duy giáo dục của Bộ GD&ĐT đã quá lạc hậu. Muốn khắc phục được vòng luẩn quẩn này, đồng thời khôi phục niềm tin của xã hội đối với giáo dục, thì nhất thiết tư duy giáo dục cần phải thay đổi trước hết. Điều này đồng nghĩa với việc Bộ GD&ĐT phải từ bỏ tư duy ôm đồm, áp đặt, muốn kiểm soát mọi thứ, tham gia mọi khâu của mình.

TRÁCH NHIỆM

Sự cố ca sĩ Mỹ Linh hát sai, hát nhịu, hát lung tung bài hát “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong lễ hội pháo hoa Đà Nẵng cuối tháng tư vừa rồi là một sơ suất. Nhưng đó là một sơ suất thuộc lỗi chuyên nghiệp. Mỹ Linh đã chủ quan thành ra khinh suất, nhất là bài hát này cô đã từng biểu diễn thành công. Mỹ Linh đã không thận trọng khi ra sân khấu, dù là bất cứ sân khấu lớn nhỏ nào thì khi bước ra đó, người nghệ sĩ cũng phải cẩn trọng hết sức và biểu diễn hết mình. Và cái không chuyên nghiệp sau nữa của Mỹ Linh là cô đã không ý thức được điều sai của mình với nhạc sĩ, với công chúng. Giá như sau đêm biểu diễn đó, cô chủ động lên tiếng với báo chí xin lỗi ban tổ chức và khán giả thì hay biết mấy. Chờ khi báo chí lên tiếng trước rồi cô mới thấy ra lỗi của mình, mới xin lỗi, lại còn cho biết là chồng cô đã mắng cô về cái sai đó nữa, thì người nghe vẫn thấy gợn. Trách nhiệm ở đây trước hết thuộc về Mỹ Linh cả trong việc hát sai, cả trong việc không kịp thời sửa sai xin lỗi.
Phạm Xuân Nguyên
Điều này không riêng ca sĩ Mỹ Linh mắc phải. Rất nhiều các cơ quan công quyền của ta chỉ lên tiếng xin lỗi, nhận trách nhiệm sai sót hoặc hứa xem xét tình hình khi và chỉ khi đã bị các phương tiện truyền thông đại chúng nêu tên chỉ việc, hoặc nặng hơn nữa là phanh phui sự cố. Như trường hợp ở đình Trang Liệt, phường Trang Hạ, Từ Sơn, Bắc Ninh. Một ngôi đình cổ được xếp hạng di tích văn hóa, nơi từ đây đã phát động phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới, vậy mà có một cái chợ ngang nhiên nhóm họp và tồn tại trong một thời gian dài nhưng chính quyền đại phương cứ làm lơ, không ra tay dẹp bỏ. Cho đến khi được nhân dân phản ánh, đài truyền hình trung ương phát một phóng sự về tình trạng đó, chính quyền mới hành động. Vậy mà vị đại diện chính quyền còn nói là sẽ làm nghiêm, sẽ bảo vệ cho đình được phong quang. Thử hỏi, nếu không bị đài đưa lên sóng, họ có biết nhưng có làm không?
Hàng ngày chúng ta nói nhiều về trách nhiệm của mỗi người, của cơ quan đoàn thể, của tổ chức bộ máy. Nhưng hình như càng nói nhiều thì trách nhiệm càng bé lại, giảm đi, đến thành ra không thấy trách nhiệm ở ai, ở đâu nữa. Mỗi cá thể cũng như tập thể cứ chờ bị nhắc, bị báo đài săm soi thì mới giật mình, mới vội sửa chữa cái sai, cái dở. Do đó mới có một tâm trạng rất đáng buồn và đáng cười ở ta là săn đón các phương tiện truyền thông, nhất là truyền hình, mỗi khi “tốt phô ra”, còn khi “xấu xa đậy lại” thì lại tìm mọi cách ngăn cản phóng viên, nhà báo tiếp cận sự việc, thậm chí là hành hung người đang đưa tin, làm tin.
Trách nhiệm vì thế không chỉ là một yêu cầu xã hội, mà còn là một đòi hỏi nội tâm, để mỗi con người, mỗi tổ chức biết cân nhắc, thận trọng trước mỗi hành vi, hoạt động của mình, dù là trong lĩnh vực nào và ở phạm vi nào.
              Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội

NGƯỜI KHÔN NÓI LẮM CŨNG NHÀM!

           Người ta bảo, game show là cái mỏ tiền của truyền hình.
          Vì mê cái mỏ tiền đó mà nhiều người suốt ngày ngồi viết đăng ký, gọi điện thoại để hy vọng vào các mỏ tiền đó mà đào lấy chút đỉnh. Cũng đúng thôi, một học sinh đi thi đoạt giải học sinh giỏi Toán quốc tế cũng chỉ nhận được giải thưởng là cái bằng khen kèm vài triệu đồng, vào chơi game show một lúc có thể “bợ” hàng chục triệu đồng, y như trúng xổ số, ai mà không mê.
          Tạo ra được điều đó kể cũng vui.
          Nhưng mà...
          Tui nói thiệt, bật tivi, thấy game show nào có anh Lại Văn Sâm là tui “bỏ qua” liền. Anh Sâm giỏi thì ai cũng biết, đến nổi hồi SV96, anh còn tạo được cả “làn sóng” xin cám ơn và xin cám ơn, khiến cuộc nhậu nào cũng phải học theo, nói theo.
          Anh Sâm nổi lên từ hồi VKT cùng anh Trần Bình Minh, nhưng anh Minh đúng là người “biết dừng lại khi bữa tiệc đang còn vui nhất”, rút vào hậu trường, anh trở thành nhân vật quan trọng, nhưng trong lòng khán giả vẫn không nguôi nhớ anh.
          Anh Sâm cũng đã làm nhân vật quan trọng, nhưng anh chơi đến tàn cuộc tiệc vẫn còn chơi. Game show nào mới mở anh cũng nhảy vô, như thể “không có Sâm bất thành truyền hình” vậy!
          Con người không biết dừng lại là con người không thể tiến lên. Câu này đúng chí ít là trong mắt tôi.
          Cùng với anh Sâm là chị Tạ Bích Loan, chị Loan nổi danh từ “Người đương thời” và chị “cầm”nó cho đến nay. Chị là một ví dụ điển hình cho các giảng viên dạy môn kỹ năng phỏng vấn trong các trường báo chí lấy ví dụ vì là người mắc vô số lỗi trong phỏng vấn, ví như đặt câu hỏi gợi ý, đặt câu hỏi hai trong một, phỏng vấn nhưng không hề biết nghe mà như đi dạy người ta...Đó không phải là phỏng vấn mà gọi là đi diễn lại kịch bản đã sắp đặt trước. Chị Loan không phải là người của truyền hình và người ta không mắc bệnh thích lên truyền hình thì chị hỏi theo kiểu nhảy vô họng người ta, chắc không ai nói.
          Bỏ qua!
          Một người nữa là anh Long Vũ, thoạt tiên tôi mê anh lắm, cho đến một ngày thấy anh dẫn game show bóng đá với hai đội chơi có hai đội trưởng là hai cây hài thái quá. Bình loạn bóng đá vô cùng nhảm nhí!
          Bỏ qua!
          Rồi game show Trò chơi âm nhạc, chơi quái gì mà nuôi hai đội trưởng “gà nòi” cứ thế mà chơi, chán ngắt ngằn ngặt! Trò chơi là của chung khán giả chứ đâu của đài và cũng đâu phải của hai ông đội trưởng?
          Bỏ qua!
          Dân gian có câu “Người khôn nói lắm cũng nhàm”, chép ra câu này tặng các anh chị nói trên.
          Nhưng không xem các anh chị thì xem cái gì?
          May quá, nay có truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số, bao nhiêu là kênh, game show của họ hay đến mức người không biết tiếng xem vẫn thấy hay. Cái này giống như xem phim nước ngoài không thuyết minh, không phụ đề vẫn hay, còn phim ta nói nhiều như đọc tiểu thuyết vẫn cứ...không hiểu! Lạ thế!
          Ấy là cảm nhận của tôi, mọi người đừng nghe, cứ tự nhiên mà thưởng thức, viết đăng ký, gọi điện thoại mà chơi kiếm chút đỉnh, truyền hình quốc gia sống là nhờ ta đóng thuế mà, ngại chi!

          NGUYỄN THẾ THỊNH (địa chỉ liên kết đến bài viết trên trang Nguyễn Thế Thịnh blog: http://blog.360.yahoo.com/blog-5TDLr8wlc6.tURSM5c0nH1Iw)

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2011

GS Hoàng Tụy: Chúng ta thiếu vắng những "Tạ Quang Bửu" và ...

"Thiên tài chủ nghĩa"- con đường đúng?
GS Ngô Bảo Châu đạt đỉnh cao với giải Fields thêm một lần nữa chứng tỏ tư chất thông minh của người Việt Nam không kém ai. Nhớ lại sau khi ta thắng hai đế quốc lớn, cả thế giới nhìn vào Việt Nam và tưởng rằng trong vài chục năm VN sẽ thành cường quốc về mọi mặt.
Nhưng thực tế không phải như vậy. Bây giờ việc GS Ngô Bảo Châu được giải thưởng Fields có thể xem là một "chiến thắng Điện Biên Phủ" mới trên mặt trận khoa học. Ta có quyền hy vọng sau vài chục năm nữa, VN thành cường quốc về khoa học - kỹ thuật, và từ đó thành cường quốc cả về kinh tế.
Mong rằng chúng ta sẽ rút kinh nghiệm để không phải thất vọng.
Câu hỏi đặt ra là làm sao để không chỉ có một GS Ngô Bảo Châu được vinh danh, và người được vinh danh ấy sẽ đạt thành tựu khi nghiên cứu khoa học trong nước?
Mục tiêu đó rất khó khăn, nhưng phải cố gắng làm được. Nếu chỉ dựa vào nước ngoài như trường hợp GS Ngô Bảo Châu thì chỉ là những cá nhân thôi.
GS Tạ Quang Bửu
Nhắc lại quá trình đi đến Giải thưởng Fields của GS Ngô Bảo Châu, đã có nhiều bài viết của những người trong giới toán học đề cập. Ta có thể rút ra những kinh nghiệm tốt về chiến lược xây dựng các ngành khoa học của Việt Nam trước đây.
Trước hết là phát hiện những mầm non tài năng, và chọn lọc chăm sóc những mầm non ấy. Nếu điều kiện trong nước khi đó chưa có thì sẽ gửi đến những nơi tốt nhất trên thế giới để đào tạo. Đó là ý tưởng của những người đề xuất tổ chức những lớp chuyên Toán (hồi đó gọi là lớp Toán đặc biệt, khi đi sơ tán thì gọi là A0).
Tôi được may mắn là người đầu tiên đề xuất ra ý tưởng ấy, và rất may mắn được GS Lê Văn Thiêm hết sức ủng hộ, rồi đến vị tư lệnh ngành là GS Tạ Quang Bửu, và trên lãnh đạo cấp cao là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhờ sự đồng cảm và ủng hộ của những người có cương vị từ thấp đến cao của bộ máy lãnh đạo, mới có được thành công của lớp A0 ươm mầm nhiều tài năng.
Dù về sau cả tôi, GS Lê Văn Thiêm, GS Tạ Quang Bửu đều bị "đánh giá" là thiên tài chủ nghĩa, nhưng bây giờ nhìn lại đó là con đường đúng.
Riêng về ngành toán của chúng tôi, chúng tôi có kinh nghiệm ngay từ đầu phải hết sức coi trọng tài năng, phải dựa theo kinh nghiệm quốc tế để đào tạo tài năng khoa học. Hết sức tránh kiểu làm không giống ai, tất nhiên cũng phải đề phòng kiểu copy nguyên xi.
Hồi đó, những anh em có trách nhiệm xây dựng ngành toán đã có ý thức hội nhập quốc tế rất sớm, đồng thời chú ý những đặc điểm của nước mình, không thể copy nguyên xi được. Khi tôi được phân công xây dựng Chiến lược phát triển toán học cuối những năm 60, cho 20 năm 1970 - 1990, ý tưởng chủ đạo là không dàn hàng ngang mà xây dựng cả ngành toán học được. Phải cố gắng ngoi lên để có vị trí quốc tế trên một lĩnh vực cụ thể, rồi nhờ vị trí đó mà biết cách người ta làm khoa học như thế nào, biết những chuyện "bếp núc" của khoa học thế giới.
Phải có những nhà lãnh đạo có tầm
Chúng tôi đã hứa long trọng với Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc đó, trong 20 năm sẽ xây dựng được một ngành có vị trí trên quốc tế.
Kết quả chỉ chưa đầy 10 năm, đến giữa những năm 70, ngành toán Tối ưu đã có vị trí quốc tế. Tôi nhớ giữa những năm 1980, một số nhà toán học hàng đầu quốc tế đến Việt Nam, câu đầu tiên họ nói là "tôi rất vinh dự đến một địa danh nổi tiếng trên thế giới về Tối ưu".
Nhờ mình "leo" lên được vị trí như vậy, mình mới biết người ta làm khoa học như thế nào. Có thể biết được chuyện bếp núc trong việc xây dựng một ngành khoa học, kinh nghiệm lan tỏa sang những ngành khác. Trong thập kỷ 80, ngành toán chúng ta đã có 17, 18 học bổng Humbolt là học bổng rất có giá trị, có sự cạnh tranh quyết liệt trên quốc tế, Mỹ - Nhật - Pháp đều muốn nhận học bổng đó...
Chúng ta cũng đã xây dựng được một trung tâm nghiên cứu đạt trình độ cao là Viện Toán học, đến giữa những năm 1990 được Viện Hàn lâm thế giới thứ 3 công nhận là một trong số không nhiều những viện nghiên cứu xuất sắc của thế giới thứ ba.
Đồng thời, nhờ chúng ta có một tổ chức, cách làm việc thích hợp nên đã lôi kéo được rất nhiều nhà toán học hàng đầu trên thế giới đến VN, hợp tác rất có hiệu quả, giúp ta đào tạo cán bộ, tổ chức nhiều hội nghị ở VN, mở rộng ảnh hưởng với thế giới.
Nhắc lại một thời huy hoàng của Toán học Việt Nam, để hiểu muốn phát triển bất cứ một ngành khoa học nào, không thể chỉ anh em trong ngành khoa học đó tha thiết và tận tâm làm việc mà đủ.
Muốn xây dựng một ngành khoa học phát triển thì phải có những người lãnh đạo như GS Lê Văn Thiêm, cấp quốc gia phải có những người như GS Tạ Quang Bửu, cấp lãnh đạo cao nhất phải là những người như Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Giờ đây, khoa học không được phát triển như mong muốn, là vì chúng ta thiếu vắng những Tạ Quang Bửu và Phạm Văn Đồng, nên dù ở cấp độ ngành có nhiều người kế tục GS Lê Văn Thiêm nhưng kết quả không thể được như trước nữa.
Tôi tha thiết muốn nhắc lại kinh nghiệm này với những nhà lãnh đạo cao nhất.
Cuối cùng, tôi muốn nhắc lại ý một câu trả lời của GS Ngô Bảo Châu vì tôi rất tâm đắc, và thấy không chỉ đúng với người làm khoa học mà đúng với cả người làm lãnh đạo: "Làm việc nghiêm túc, tận tâm, không chạy theo những danh tiếng hão. Như thế sẽ có lợi cho cộng đồng, cho đất nước. Và cái danh cũng sẽ đến".
                                                                                                                                                Khánh Linh (ghi)

Chữ ‘danh’ và thói ‘hám danh’

Đẹp mà không đẹp
Có lẽ đã quá quen thuộc với cảnh kiện cáo quanh các giải thưởng nên nhiều người sẽ bàng quan mà rằng "chuyện ấy xưa như trái đất". Nhưng xem ra những lình xình trong thời gian gần đây về các giải thưởng Nhà nước trong lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh đã không còn là "chuyện nhỏ" nữa.
Liên tiếp trong một thời gian ngắn, nền nghệ thuật nước nhà đã chứng kiến 2 vụ kiện cáo quanh các giải thưởng. Đó là việc 8 nhạc sĩ tên tuổi gửi đơn phản đối những đề cử Giải thưởng Nhà nước về âm nhạc năm 2010 và vụ lời qua tiếng lại xung quanh Giải thưởng Nhà nước về các tác phẩm điện ảnh Sự nhọc nhằn của cát, Những công dân @Chất xám giữa các nhà biên kịch và đạo diễn.
Không riêng gì 2 lĩnh vực trên mà từ lâu, dư luận cũng đã từng biết đến nhiều lời qua tiếng lại rằng ai xứng đáng hay không xứng đáng có mặt trong các hội văn học nghệ thuật địa phương, nhất là tại Hội Nhà văn.
Xem ra, cách hành xử của những người làm công tác sáng tác văn học, nghệ thuật về cái đẹp... gọi chung là lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn,  nhưng lại không đẹp, không nhân văn tí nào.
Một sự thật đau lòng xung quanh các kiện cáo này là những người tham gia kiện cáo thường là những "cây đa, cây đề" trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Họ là người của công chúng, là những người đi trước và cũng là người thầy đáng kính của những người trẻ, người đi sau. Liệu rằng sau những vụ kiện cáo làm ồn ào dư luận thì hình ảnh của họ có ít nhiều bị hoen ố? E rằng là có!
Nhiều người cho rằng họ đã "vạch áo cho người xem lưng" nhưng có lẽ không đơn giản như vậy. Không những "lưng" của mỗi người trong số họ tự vạch ra cho người ta xem mà họ còn tự tay xé rách tấm áo cũ nát đang được khoác 1 cách cẩu thả, gượng gạo trên tấm thân đầy những vết sẹo là cái tổ chức, cái hội mà họ đã và đang tham gia.
Người viết bài này tin rằng, nếu là 1 người hoạt động nghệ thuật chân chính, tận tâm và trong sáng thì ưu tiên hàng đầu của họ là cố gắng tạo ra được các tác phẩm hay, có chất lượng cao, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc để phục vụ khán, thính giả.
Trước và trong khi sáng tác các tác phẩm nghệ thuật, sẽ không ai nghĩ rằng tác phẩm do mình "mang nặng đẻ đau" đúng nghĩa chỉ để dành tham gia giải thưởng này, giải thưởng kia, bởi 1 điều đơn giản, tác phẩm sinh ra giải thưởng chứ không hề có chuyện giải thưởng sinh ra tác phẩm. Liệu có giải thưởng nào cao quý hơn sự đón nhận và chia sẻ của công chúng?
Có rất nhiều nghệ sĩ đã không còn mặn mà với các giải thưởng. Một số người cho rằng các chuẩn mực để xét giải thưởng hiện nay đã bị tầm thường hóa nên giải thưởng đã không còn giá trị. Số khác thì lại cảm thấy quá mệt mỏi với việc làm hồ sơ, phải "kê khai" thành tích của mình.
Nhưng phần lớn lại cho rằng với cách thức xét giải mang nặng tính xin- cho như hiện nay đã làm cho các giải thưởng không còn giá trị, và thiếu công bằng. Bởi ai mà chẳng biết nơi nào có xin- cho thì nơi ấy vấn nạn chạy chọt hay "đi đêm" sẽ luôn có đất tồn tại.
Tất cả chỉ vì chữ "danh" mà ra
Việc có những giải thưởng để khích lệ tinh thần và khẳng định những đóng góp của văn nghệ sĩ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung là điều nên làm. Giải thưởng không những là sự ghi nhận của xã hội mà còn là mục tiêu để các văn nghệ sĩ cố gắng phấn đấu sáng tạo các tác phẩm có giá trị để phục vụ công chúng tốt hơn.
Một số ý kiến cho rằng việc kiện cáo liên quan đến các giải thưởng cũng là lẽ thường tình. Những người kiện cáo cũng chỉ đơn giản là đấu tranh cho sự công bằng trước những bất công đã và đang tồn tại bấy lâu nay. Nhưng liệu có ai biết rằng bất công do đâu mà có? Tất cả cũng chỉ vì một chữ 'danh' và thói 'hám danh' mà ra.
Cũng chỉ vì ham hố những giải thưởng này, giải thưởng nọ cốt để lòe thiên hạ mới xảy ra cơ sự luồn lách, chạy chọt, vỗ vai rỉ tai to nhỏ... hòng tìm kiếm giải thưởng như ngày hôm nay.
Có một thực tế đáng nói là hiện nay đang là thời "loạn" các giải thưởng. Các giải thưởng được trao từ cấp xã phường đến cấp trung ương, từ cơ quan này đến tổ chức nọ. Nhưng bức tranh về sáng tác nghệ thuật thì không mấy sáng sủa.
Có quá nhiều giải thưởng được trao nhưng có mấy ai sáng tác được những tác phẩm để đời? Trong khi đó thì trước kia, đương thời các tác giả như Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Khuyến hay gần hơn là Nam Cao, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý ... đâu quan tâm đến các giải thưởng nhưng đã để lại cho hậu thế những tác phẩm bất hủ, mãi mãi trường tồn với thời gian.
Có lẽ công chúng đã quá ngán ngẩm với việc tranh giành giải thưởng đã và đang xảy ra. Thay vì tốn quá nhiều thời gian và công sức cho việc kiếm tìm chút hư danh, xin hãy dành thời gian và trí tuệ mà sáng tác những tác phẩm phục vụ công chúng.
Ngài Alex Ferguson đã có một câu nói để đời và cũng là một triết lý trong bóng đá, nhưng xem ra vẫn có thể dùng được trong trường hợp này. Đó là: "Phong độ là nhất thời, còn đẳng cấp mới là mãi mãi".
Các giải thưởng, dù có là Giải thưởng Nhà nước đi chăng nữa thì cũng chỉ là nhất thời, còn tên tuổi của tác giả có sống được với thời gian, có mãi tồn tại trong lòng công chúng thông qua sáng tác của họ hay không mới chính là đẳng cấp. Đây quả thật không phải là điều quá khó hiểu đối với những người sáng tạo nghệ thuật.
Hãy biết cư xử nhân văn hơn để xứng đáng với danh xưng mà xã hội đã dành cho các văn nghệ sĩ. Liệu khi mải lo kiện cáo, tranh giành giải thưởng,... các văn nghệ sĩ đã quên mất rằng mình đang thuộc nhóm khoa học xã hội và nhân văn chăng?