Tìm kiếm

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Tọa đàm: Bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thứ 3, 16:00, 01/09/2015
VOV.VN tổ chức tọa đàm trực tuyến “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vào chiều 1/9, tại Hà Nội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc. Với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, rất nhiều bậc trí thức, các học giả, kể cả giáo sỹ, quan lại, cho đến những ông vua đã thoái vị như Bảo Đại đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm hóa và vận động tham gia chính quyền cách mạng. Cách dùng người của Bác Hồ thể hiện thái độ trọng thị, tầm nhìn minh triết, lòng nhân ái bao la và tư tưởng đại đoàn kết cao cả. 70 năm đã trôi qua, những bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài vẫn còn nguyên giá trị tới ngày nay.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Báo điện tử VOV của Đài TNVN tổ chức cuộc tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vào 14h chiều 1/9 tại Hà Nội.
Các vị khách mời tham gia chương trình gồm: PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); PGS.TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Ông Lê Quang Thưởng - Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương.
VOV.VN xin giới thiệu phần đầu của cuộc tọa đàm này:
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con người là yếu tố quyết định
PV: Thưa PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, theo ông, vai trò của cá nhân, của nhân tố con người trong thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là gì?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 là cuộc cách mạng điển hình về giải phóng dân tộc trong thế kỷ 20.
Cuộc Cách mạng ấy đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị từ 1930, thậm chí, nếu nói về chuẩn bị con người thì phải từ 1920 khi Nguyễn Ái Quốc mở những lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc).
Sau này, trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc trực tiếp từ 1939-1945, Bác Hồ đã hết sức quan tâm đến nhân tố con người, đào tạo cán bộ trực tiếp cho cuộc Cách mạng.
Sự chuẩn bị cán bộ trước hết nói từ cấp Trung ương. Từ khi Bác Hồ về nước vào đầu năm 1941, Hội nghị Trung ương 8 đã quy tụ những đồng chí lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta lúc đó, trải qua thử thách của nhiều cao trào cách mạng trước để hình lên đội ngũ lãnh đạo trung kiên của Đảng, của dân tộc.
Đến khi trực tiếp nổ ra cuộc Cách mạng Tháng 8, ở cấp Trung ương, chúng ta đã có những nhà lãnh đạo lỗi lạc, cùng với Hồ Chí Minh như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt… và nhiều đồng chí khác ở cấp chiến lược.
Cho đến quyết định khởi nghĩa Tháng 8, ban lãnh đạo tối cao có vai trò quyết định trong việc phát động phong trào cũng như dự báo tình hình và trực tiếp chỉ đạo cụ thể. Đặc biệt là sau Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào vào 14-15/8/1945.
Khi nói đến nhân tố con người, ngoài cấp chiến lược – cấp Trung ương thì phải nói đến những người lãnh đạo cụ thể ở các cấp xứ ủy, tỉnh ủy, thành ủy. Ở đây, trong giờ phút kỷ niệm Cách mạng Tháng 8 này, chúng ta biết rằng, lịch sử là do nhân dân làm ra, nhưng cũng có vai trò của con người cụ thể.
Tôi ví dụ như thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8 không thể tách rời vai trò của Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn Huy Khôi, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Quyết… Những đồng chí này có vai trò quyết định để khởi nghĩa thắng lợi.
Còn ở miền Trung, ngoài vai trò của xứ ủy Trung kỳ thì đồng chí Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh đã trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Huế và các tỉnh miền Trung.
Ở Nam kỳ, phải nói tới vai trò của Bí thư xứ ủy Trần Văn Giàu, ông là một nhà khoa học và một nhà lãnh đạo lỗi lạc, được đào tạo khá bài bản.
Vùng nông thôn thì phải nói đến lãnh đạo của các đồng chí Dân Tôn Tử, Nguyễn Thị Thập…
Nếu nhìn xuống tận các tỉnh, thành phố thì chúng tôi – với tư cách những người nghiên cứu lịch sử thì thấy có nhiều cá nhân rất xuất sắc, chịu trách nhiệm trước đất nước, dân tộc và chịu trách nhiệm trước Đảng. Họ đã có những quyết đoán trước khi nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương.
Khi nói tới vai trò của các cá nhân trong Cách mạng Tháng 8, tôi có thể khái quát như vậy...
PV: Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một văn bản với tiêu đề “Tìm người tài đức”. Các vị khách mời đánh giá như thế nào về văn bản này của Bác?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Trước khi nói về văn bản “Tìm người tài đức” của Bác Hồ, tôi phải nói tới cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 và sự ra đời của Chính phủ lâm thời. Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào có 15 người là thành viên của Ủy ban Giải phóng Dân tộc, khi về đến Hà Nội thì cải tổ thành Chính phủ lâm thời.
Điều mà có lẽ nhiều người chưa biết đến, đó là có những đồng chí lãnh đạo Đảng, lãnh đạo mặt trận Việt Minh lúc đó đã tự rút lui khỏi danh sách Chính phủ lâm thời để nhường chỗ cho những nhà trí thức, nhân sĩ tham gia. Có thể kể đến đồng chí Trường Chinh (Tổng Bí thư), Nguyễn Lương Bằng (lãnh đạo của Tổng bộ Việt Minh), đồng chí Nguyễn Chí Thanh.
Cho đến khi công bố danh sách Chính phủ lâm thời ngày 28/8/1945, trong 15 thành viên thì các nhân sĩ yêu nước chiếm khoảng 2/3. Trong giờ phút này, chúng ta nên nhắc lại 9 người tri thức, nhân sĩ được tham gia Chính phủ lâm thời với tất cả nhiệt huyết của mình là: Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Trọng Khánh, Đào Trọng Kim, Phạm Ngọc Thạch, Vũ Đình Hòa, Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân.
Sau này, Chính phủ lâm thời qua nhiều lần cải tổ nhưng những người này vẫn tại vị và bổ sung thêm một số người khác. Đến khi lập Chính phủ chính thức sau bầu cử Quốc hội vào 2/3/1946, các vị nhân sĩ trí thức vẫn tích cực tham gia.
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Văn bản của Đảng ban hành ở thời điểm này về việc tìm người tài đức thực chất đã có từ rất sớm. Đảng và Bác Hồ đã quan tâm đến nhân tố con người và coi rằng đây là yếu tố quyết định, nên đã đề ra chủ trương lựa chọn người có đức, có tài để tham gia bộ máy Nhà nước trong lúc chính quyền còn non trẻ.
Từ chủ trương đó, Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn đúng và đặt đúng nhân sự vào từng cương vị, vị trí cụ thể như PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc đã nêu. Những người đó đảm đương chức vụ kéo dài trong nhiều năm.

Bác Hồ đã rất quyết đoán trong việc bố trí, sắp xếp cán bộ. Việc lựa chọn, sử dụng người của Bác Hồ có tầm chiến lược lâu dài và sắc sảo.
Phải nói là, văn bản này thể hiện việc coi trọng con người vừa có đức, vừa có tài. Như Bác từng nói: “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Nhưng ngược lại, có tài mà không có đức thì vô dụng”. Bác kết hợp hài hòa cả hai nhân tố đó trong việc lựa chọn người ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công và xây dựng chính quyền cách mạng còn non trẻ...
PV: Trong giai đoạn đầu thành lập nước, mặc dù chính quyền vừa được thành lập còn rất non trẻ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh dám dùng cả những quan chức cấp cao của Triều đình Huế, của Chính phủ Trần Trọng Kim như Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe; các chức sắc tôn giáo như Phạm Bá Trực, Cao Triệu Phát; các thủ lĩnh dân tộc như Vi Văn Định, “vua Mèo”… Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kiên trì hai lần gửi điện mời nhà nho yêu nước Huỳnh Thúc Kháng từ Huế ra Hà Nội làm Bộ trưởng Nội vụ. Tại sao Bác lại có lòng tin với nhân tài và làm được như vậy?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Bác Hồ là người mạnh dạn trong sử dụng cán bộ, sử dụng nhân tài, việc này cũng là kế thừa truyền thống dân tộc. Dân tộc ta hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước có truyền thống coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, như vua Quang Trung sau này cũng đã nói: Dựng nước thì lấy việc học làm đầu. Cho nên những người có học vấn, có trình độ cao, được Bác Hồ rất chú trọng.
Trong những năm 1945-1946, sau khi tuyên bố độc lập, Bác có 2 bài đăng trên báo Cứu Quốc đó là bài “Nhân tài và kiến quốc” đăng ngày 14/11/1945, và đến 20/11/1946, Bác tiếp tục có bài “Tìm người tài đức”. Hai bài báo đó tuy ngắn, nhưng chứa đựng những nội dung rất quan trọng trong việc đánh giá con người, đánh giá nhân tài.
Chúng ta cũng thấy hiếm có cuộc cách mạng nào như cuộc Cách mạng Tháng Tám sử dụng nhiều nhân tài, kể cả lúc giành chính quyền và sau khi lập chính quyền. Sau khi lập chính quyền còn tiếp tục mở rộng thành phần trí thức và các lực lượng tích cực tham gia vào sự nghiệp kiến thiết đất nước. Và cũng hiếm có cuộc cách mạng nào mời cả Vua làm cố vấn tối cao như mời Vua Bảo Đại.
Sau khi viết bài “Nhân tài và kiến quốc”, chúng ta mới mở rộng thành phần Chính phủ ngày 1/1/1946. Khi mở rộng thành phần, Bác đã viết thư mời cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cụ Huỳnh Thúc Kháng sau khi biết đích xác Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì đã nhận lời.
Khi ra Hà Nội, có một chi tiết là cụ Huỳnh Thúc Kháng đã gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp trước và đồng chí Võ Nguyên Giáp nói tinh thần của Bác là mời cụ tham gia Chính phủ. Cuối cùng, cụ đã gặp Bác Hồ trong 1 tiếng đồng hồ và nhận lời tham gia Chính phủ, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Đến khi Bác sang Pháp thì giao cho cụ quyền Chủ tịch Chính phủ.
Có thể nói, những nhân vật như cụ Huỳnh Thúc Kháng là điển hình của việc sử dụng những con người tâm huyết, vì cụ Huỳnh là một trong những nhà yêu nước nổi tiếng.
Ngoài ra, cũng phải lưu ý là khi mở rộng thành phần Chính phủ, kể cả Chính phủ chính thức sau ngày 2 tháng 3 thì những nhân vật của chính quyền cũ được tham gia rất nhiều. Như 3 nhân vật Bộ trưởng trong Chính phủ Trần Trọng Kim như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh vốn là Bộ trưởng Bộ Thanh Niên (trong Chính phủ Trần Trọng Kim), Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo.
Hay như quan khâm sai đại thần Phan Kế Toại, sau này cụ cũng tham gia Chính phủ và đi với Chính phủ đến cùng, sau này cụ làm Phó Thủ tướng, và có lẽ cụ là Phó Thủ tướng lâu nhất trong lịch sử của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhìn lại tất cả những nhân vật, chúng ta thấy tinh thần nổi bật ở Hồ Chí Minh là bất kỳ người nào dù xuất thân ở tầng lớp, vị trí trong chế độ cũ như thế nào nhưng thật sự yêu nước, mang hết tài đức để đóng góp cho sự phát triển, bảo vệ và xây dựng đất nước thì Bác Hồ đều mời hợp tác một cách chân thành chứ không hề có ý là sách lược, sử dụng tạm thời.
Ông Lê Quang Thưởng: Bác Hồ đã để lại bài học lớn về sử dụng nhân tài, sử dụng con người. Tại sao Bác lại làm được điều đó? Điều đó xuất phát từ mục tiêu cách mạng thời đại, quan trọng nhất, tập trung nhất là giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc. Khẩu hiệu giành độc lập dân tộc đã tập hợp được quảng đại quần chúng kể cả các tầng lớp trên, kể cả những người tham gia guồng máy cai trị của chế độ thực dân.
Cụ thể, những con người mà Bác đã lựa chọn và tiến cử vào bộ máy lãnh đạo của Trung ương thì đối với những quan lại cũ thì đó là những người làm việc liêm khiết, không để lại tai tiếng đối với nhân dân. Nhân dân biết điều đó, thông tin đến Bác để Bác có cơ sở tiến cử và đưa họ lên những vị trí lãnh đạo cũng như sử dụng họ.
Còn những nhân vật tôn giáo, đại diện cho các dân tộc đó cũng là những người yêu nước, rất xứng đáng để giao cho họ những trọng trách trong Chính phủ mới...
PV: Có lẽ chúng ta cũng nói thêm một chút về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, từ một thầy giáo dạy Sử, ông đã được Bác Hồ trọng dụng và sau trở thành Vị Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam?
PGS-TSKH Nguyễn Trọng Phúc: Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người yêu nước nhiệt thành và ngay từ thời trẻ đã sớm đi vào con đường hoạt động cách mạng. Năm 1927, đồng chí đã tham gia vào tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng - 1 trong 3 tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và được tiếp cận với những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Với những giác ngộ cách mạng như vậy, vào đầu những năm 30, đồng chí trở thành người giác ngộ theo lý tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Sau này khi ra Hà Nội, đồng chí vừa hoạt động công khai, vừa dạy học nhưng bí mật lại là hoạt động cho Đảng.
Mùa xuân Canh Thìn, sau ngày Tết, Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc để liên lạc với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc với Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ở Côn Minh là bước ngoặt trong nhận thức của Võ Nguyên Giáp đối với sự nghiệp cách mạng và gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc.
Sau khi Bác Hồ trở về nước ngày 28/1/1941, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp cũng trở về theo sự chỉ đạo của Bác, lúc đó, nước Pháp đang rơi vào tay phát xít Đức nên Bác nói đây là cơ hội tốt để chúng ta trở về giành độc lập.
Lúc đó, lẽ ra đồng chí Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Bác cử đi học ở Diên An, sau đó ở Liên Xô nhưng phải hoãn việc đi học để trở về nước. Từ đó, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1941 cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Võ Nguyên Giáp luôn là người học trò tin cậy, gần gũi nhất của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Đến khi Cuộc cách mạng tháng Tám nổ ra, cũng là lúc Bác Hồ đặt tất cả sự tin cậy vào người học trò của mình, không những về phẩm chất chính trị, phẩm chất của người cộng sản mà ở các tinh thần yêu nước, tiêu biểu cho một lực lượng trí thức cách mạng lúc đó. Bác Hồ đã chính thức giao cho Võ Nguyên Giáp việc xây dựng lực lượng vũ trang, lãnh đạo Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Ở giờ phút tháng 8/1945, tôi muốn nhấn mạnh thêm về lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Võ Nguyên Giáp ở căn cứ địa Tân Trào: “Lúc này thời cơ ngàn năm có một, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Lúc đó, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng đã ngồi để thảo luận tình hình trong nước và quốc tế.
Trong nước, cao trào cách mạng phát triển tới đỉnh cao, tổ chức Đảng sẵn sàng đưa quần chúng vào nhiệm vụ cách mạng. Tình hình quốc tế dồn dập sau thất bại của Đức, Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, trước đó là Hội nghị Tehran năm 1943, rồi Hội nghị San Francisco…, phân tích tình hình trong nước và quốc tế để đi đến quyết định.
Lúc đó, Bác đã để ý tới 2 nguy cơ lớn, thời cơ có thể đã xuất hiện giành được thắng lợi nhưng phải nhanh chóng để đẩy lùi 2 nguy cơ lớn, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đã thống nhất được nhận thức về 2 nguy cơ này và ghi vào Nghị quyết của Hội nghị Đảng toàn quốc họp tại Tân Trào.
Nguy cơ thứ nhất là Pháp lợi dụng Nhật thất bại có thể quay lại áp đặt chế độ cai trị như trước ngày 9/3 - ngày Nhật đảo chính Pháp. Đấy là nguy cơ lớn nhất, và sau này Pháp quyết tâm làm việc đó, xâm chiếm Nam bộ sau ngày độc lập. Nguy cơ thứ hai, là quân Anh và Quốc dân đảng Trung Hoa kéo vào để giải giáp theo Hội nghị Potsdam, từ Đà Nẵng trở vào là quân Anh, từ Đà Nẵng trở ra là quân Tàu Tưởng Giới Thạch, những thế lực này cũng có mưu đồ rất lớn.
Như trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc có nêu rõ họ có mưu đồ xâm chiếm nước ta, nếu chúng ta không giành chính quyền nhanh, với tư cách người chủ đất nước độc lập tiếp quân đồng minh, nguy cơ này xuất hiện sẽ gây nhiều khó khăn cho việc giành chính quyền.
Khi nói về Võ Nguyên Giáp có thể nói rằng, lúc giành chính quyền, đây là một trong những người có bộ óc vĩ đại đã cùng với Bác Hồ để quyết định Tổng khởi nghĩa. Sau khi giành chính quyền, Võ Nguyên Giáp vẫn là người luôn ở bên cạnh Bác.
Trong cơ cấu Chính phủ lâm thời, Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi cải tổ Chính phủ lâm thời, Võ Nguyên Giáp thôi không làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, chức đó Bác Hồ giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi đó, Võ Nguyên Giáp không giữ bất cứ chức vụ nào trong bộ máy, sau này kháng chiến mới trở lại làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tuy vậy, ông vẫn là linh hồn cùng với Thường vụ Trung ương cùng với Bác Hồ chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ chính quyền cách mạng, củng cố chính quyền cách mạng, tiến hành cuộc kháng chiến thành công.
Ông Lê Quang Thưởng: Các nhân vật lãnh đạo của đất nước ta có rất nhiều người tài, nhưng trong các cuộc mít tinh lớn người ta hay nhắc tới cụ Hồ và tướng Võ Nguyên Giáp. Dấu ấn của Tướng Giáp gắn liền với Chiến thắng Điện Biên Phủ. Chúng ta thắng trong trận chiến Điện Biên Phủ là một cú hích quan trọng để lật đổ một mảng lớn chế độ thực dân.
Võ Nguyên Giáp đã được báo chí quốc tế liệt kê là một trong 10 vị tướng nổi bật trên thế giới. Sở dĩ ông được xếp vào vị trí quan trọng ấy chính là thành tựu của cách mạng Việt Nam, thành tựu của cuộc kháng chiến, mà mở đầu là những trận đánh của quân đội Nhân dân Việt Nam sau khi ra đời, và người cầm quân không ai khác là Võ Nguyên Giáp kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp là trận Điện Biên Phủ.
Đấy là một con người vĩ đại không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trên thế giới.
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người được nhân dân ta suy tôn là vị Đại tướng của lòng dân, có thể nói ông là học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ở góc độ phát hiện và trọng dụng nhân tài, Bác Hồ đã vô cùng tài tình và sáng suốt khi lựa chọn Võ Nguyên Giáp. Nhiều người vẫn đặt câu hỏi, không biết Võ Nguyên Giáp vốn là một thầy giáo dạy Sử nhưng đã trở thành một vị Đại tướng đã được đào tạo về chiến lược quân sự ở đâu. Đại tướng cũng đã có lần trả lời câu hỏi này và nói rằng ông học từ cuộc sống, từ thực tế.
Nhưng phải nói rằng, việc Bác Hồ lựa chọn rồi giao nhiệm vụ là một tầm chiến lược lâu dài, dù có những lúc ông phải rút về phía sau chứ không đảm đương những vị trí trong Chính phủ. Đấy là quá trình cùng sát cánh với Bác Hồ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ để nghiên cứu tìm ra những vấn đề chiến lược cho cuộc đấu tranh cách mạng của Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một bằng chứng cụ thể chứng minh việc phát hiện, sử dụng, bồi dưỡng nhân tài. Công lao đó thuộc về Hồ Chí Minh...
Bác Hồ luôn hiểu những người tài mà mình lựa chọn
PV: Từ cách dùng người của Bác Hồ, theo các vị khách mời, chúng ta có thể rút ra bài học gì?
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Tôi cho rằng bài học đầu tiên là về chiến lược nguồn nhân lực. Điều đó phải có tính toán kỹ lưỡng và lâu dài. Tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của ông Lê Quang Thưởng, tại sao Bác lại tin tưởng để chọn người? Điều quan trọng là phải xác định mục tiêu của cách mạng. 
Thời điểm đầu tiên của chúng ta là giành độc lập dân tộc. Bác biết tất cả người Việt Nam trước đó dù ở vị trí nào, lực lượng nọ kia thì đều là người Việt Nam, đều chung mục tiêu là lấy lại nền độc lập. Người dân Việt Nam vừa là động lực, vừa là mục tiêu, lựa chọn người vào Chính phủ lúc bấy giờ là phù hợp. 
Nhưng để cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, rồi đến xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có những con người lâu dài, cho cả tương lai, thì việc chọn người phải có tầm chiến lược. Từng giai đoạn cụ thể phải có sách lược để đào tạo, sử dụng con người cho hợp lý. 
Vấn đề đặt con người là trung tâm, nhân tố con người là quyết định sự thành công của cuộc cách mạng là mục tiêu đặt ra để lựa chọn và sử dụng con người. Đó là những người có đức, có tài, quan trọng là đặt họ đúng vị trí. 
Bác Hồ và Đảng ta đã dày công nghiên cứu và cuối cùng, xây dựng được đội ngũ cán bộ - những người học trò xuất sắc của Bác để lãnh đạo nhân dân ta làm những cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà như Điện Biên Phủ năm 1954, chiến thắng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, công cuộc đổi mới 1986, cương lĩnh xây dựng phát triển đất nước 1991, xây dựng Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013… 
Cả quá trình được xâu chuỗi, có định hướng chiến lược và gắn với mục tiêu của từng thời kỳ để lựa chọn người phù hợp, chứ không phải chắp vá, được đến đâu hay đến đấy. Tôi cho rằng đó là một bài học mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Ông Lê Quang Thưởng: Trước hết, bài học về vấn đề sử dụng con người là vấn đề hiểu người, nói như bây giờ, chúng ta có văn kiện đánh giá cán bộ. Ở thời đó, Bác Hồ hiểu những người mà mình lựa chọn – đó là những người yêu nước thực sự, là những người dân vì nước vào vị trí lãnh đạo. 
Thứ 2 là nhìn thấy nhân tố phát triển của người đó. Tuy người đó không được học hành, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp không qua trường quân sự nào nhưng Bác Hồ giao cho làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đó là bởi Bác hiểu con người này có kiến thức, có khả năng phát triển, có khả năng tập hợp đội ngũ để làm sự kiện lớn. Cái hiểu người và nhìn thấy nhân tố phát triển là rất quan trọng.
Thứ 3 là giao đúng việc cho từng người để thử thách, rèn luyện, đánh giá và cất nhắc. Cuối cùng là dựa vào nhân dân để tiến cử, giúp cho cán bộ được rèn luyện, trưởng thành. 
Đương nhiên, bài học của công tác quản lý cán bộ bây giờ là quản lý cán bộ. Bác Hồ cũng là người đảm nhiệm chức năng giao việc, đề bạt thì phải theo dõi, giúp đỡ và uốn nắn họ để họ phát triển. Đó là chức năng của quản lý cán bộ. 
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Tôi thấy hai ý kiến vừa rồi rất xác đáng. Nhưng sẽ thiếu sót nếu chỉ nhìn thấy việc chỉ tìm người tài đức để vào bộ máy lãnh đạo. Tôi thấy, ở Bác Hồ, ngoài việc tìm người giỏi vào lãnh đạo Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội thì Bác rất chú ý đến cán bộ khoa học để giúp sự phát triển lâu dài của đất nước. 
Ngày 31/12/1945, Chính phủ lâm thời đã ký sắc lệnh số 78, thành lập Ủy ban nghiên cứu kiến thiết đất nước gồm 40 đồng chí. Đến 14/1/1946, Bác Hồ lại ký bổ sung thêm 10 thành viên. Trong 50 người này, ngoài các thành phần lãnh đạo như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…nhưng phần lớn là trí thức yêu nước. Thậm chí, có cả vợ vua Bảo Đại.
Sau này, khi Bác đi thăm Pháp, có nhiều nhà trí thức đã trở về đất nước để tham gia kháng chiến cứu quốc và kiến thiết như GS Trần Hữu Thước, GS Võ Quý Huân… Theo tiếng gọi của Bác, nhiều người từ các nước khác cũng về như Bác sỹ Đặng Văn Ngữ, Nhà khoa học Lương Đình Của…Có khi không phải Bác trực tiếp gọi nhưng tư tưởng của Bác đã khiến họ trở về đất nước. 
Bài học có tính chất bao trùm là gắn sự nghiệp của mỗi người trong sự nghiệp của muôn người, của dân tộc. Mỗi người trí thức đều có thể đóng góp phần nào đó cho sự nghiệp. Đi với Bác Hồ, với Đảng, với nước một cách tự nguyện, không có tính toán gì về lợi ích kinh tế hay danh tiếng… mà đóng góp thiết thực vào sự nghiệp của dân tộc, khiến giá trị của họ thành trường tồn. 
Lịch sử dân tộc ta luôn coi trọng hiền tài.../.
"Chạy chức, chạy quyền là hệ quả của quản lý kém"
VOV.VN - Ông Lê Quang Thưởng: Theo tôi, chạy chức, chạy quyền là hệ quả của quản lý kém và là hệ quả của mặt trái cơ chế thị trường tác động vào hệ thống chính trị và công tác cán bộ.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Báo điện tử VOV vừa tổ chức cuộc tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Các vị khách mời tham gia chương trình gồm: PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); PGS.TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Ông Lê Quang Thưởng - Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương.
VOV.VN tổ chức tọa đàm trực tuyến “Cách mạng Tháng Tám và bài học về trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vào chiều 1/9, tại Hà Nội.
Mời quý độc giả theo dõi tiếp phần 2 của cuộc tọa đàm này:
“Cán bộ trí thức, Đảng viên của chúng ta nhiều người giỏi lắm”
PV: Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”(viết tháng 10/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. 70 năm qua, những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội có vai trò tích cực của các cá nhân lãnh đạo, của vai trò tập hợp tinh hoa trí tuệ của Đảng để đưa ra các quyết sách đúng. Các vị khách mời nghĩ sao về nhận định này?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Có thể nói, quá trình định hình ra công tác cán bộ của Đảng thì Ban Tổ chức Trung ương đã tổng kết chặng đường 70 năm Đảng cầm quyền và suy nghĩ về cán bộ của mình. Nhưng xa hơn, phải nhìn lại lúc Bác Hồ đào tạo cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) để đi đến kết luận cán bộ là cái gốc của mọi công việc và huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Trải qua các thời kỳ, từ Cách mạng Tháng Tám giành độc lập năm 1945 cho đến 2 cuộc kháng chiến, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cả nước đều theo tư duy cũ. Khi xây dựng đất nước theo con đường đổi mới, nhận thức về Chủ nghĩa xã hội theo tư duy mới thì công tác cán bộ phải đáp ứng được đòi hỏi của mỗi một thời kỳ lịch sử.
Khái quát lại, tất cả các thời kỳ ấy đều có chung một vấn đề - “Cán bộ là yếu tố quyết định”. Cán bộ giỏi thì phong trào phát triển và thành công, cán bộ kém thì phong trào kém mà thậm chí có thể thất bại. Sau khi có đường lối đúng, mà cán bộ không đủ sức hoàn thành trách nhiệm lịch sử thì cách mạng khó mà thành công. Đó là bài học của lịch sử.
Tôi nghĩ rằng, trong tất cả chuẩn mực của cán bộ hiện nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói trong bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 11: Lần này, chúng ta lựa chọn cán bộ vào Trung ương, vào các cấp Ủy phải hết sức nghiêm túc để không lọt những người cơ hội về chính trị, thiếu bản lĩnh, không kiên trì lý tưởng mục tiêu, làm trái đường lối quan điểm của Đảng, phạm phải những vấn đề đạo đức, tham những và những vấn đề khác…
Vừa rồi, chúng ta đã nói một số bài học về lịch sử của công tác lựa chọn con người. Tôi thấy hiện nay vẫn có chiến lược về tập trung đào tạo nhân lực. Cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là nguồn nhân lực. Nếu nguồn nhân lực ấy có trình độ cao, ngoài bản lĩnh, phẩm chất đạo đức thì phải có trí tuệ trong yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hội nhập quốc tế, để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước.
Người lãnh đạo có tầm trí tuệ, mới có tư duy chiến lược và từ đó mới hoạch định và làm phong phú thêm nội dung cương lĩnh đường lối, mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của thời gian sắp tới, trong sự phát triển của đất nước. Còn đương nhiên, về mặt quy trình để lựa chọn cán bộ thì phụ thuộc vào mấy bước như đánh giá cán bộ khách quan, trung thực để lựa chọn người tài, rồi đưa vào quy hoạch, sau đó là đào tạo, bồi dưỡng một cách nghiêm túc, thứ 4 là sắp xếp cán bộ và cuối cùng là luân chuyển cán bộ.
Từ ngày xưa, chúng ta đã thấy “các cụ” luân chuyển cán bộ rất giỏi. Chúng ta mới có Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị khóa IX về luân chuyển cán bộ… Tất cả bước ấy, trong điều kiện hiện nay thì phải trở lại những bài học và kinh nghiệm của công tác cán bộ trong những năm vừa qua để suy nghĩ về đường hướng sắp tới.
Nếu công tác cán bộ của chúng ta thành công, lựa chọn nhân tài đúng đắn thì nhất định, bước phát triển của đất nước sẽ tốt đẹp hơn. Các cụ xưa đã tổng kết: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau nhưng hào kiệt không đời nào cũng có”, có điều chúng ta có tìm ra hay không.
Cán bộ trí thức, Đảng viên của chúng ta nhiều người giỏi lắm, lựa chọn và bố trí sử dụng thế nào cho thích hợp, tạo khoa học và nghệ thuật trong lãnh đạo, quản lý hiện nay.
Ông Lê Quang Thưởng: Theo tôi, đường lối chính trị là số 1, đường lối tổ chức là số 2, rồi mới đến công tác cán bộ. Nhưng khi đã có 2 cái kia rồi, mà không làm tốt công tác cán bộ thì hỏng, không làm ăn được gì. Nên chúng ta mới đưa ra khái niệm, công tác cán bộ là cái gốc của công việc.
Để làm được điều này, chính là phải đi theo đường lối của Đảng, theo lời dạy của Bác Hồ về vấn đề dùng người, phát hiện nhân tài, lựa chọn con người và sử dụng, bồi dưỡng họ để họ trưởng thành, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó.
Chúng ta đã có thời kỳ dài – 70 năm có Đảng, đã đúc kết được những bài học khá quan trọng về công tác cán bộ. Mà Cách mạng Việt Nam thắng lợi bắt nguồn từ đường lối đúng và một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị, giáo dục và quản lý tốt. Cho nên, họ phát huy được. Cách mạng Tháng 8 thành công là một điển hình.
Lúc Cách mạng Tháng Tám, cả nước chỉ có 5.000 đảng viên, nhưng những cốt cán của Đảng lôi kéo hàng triệu quần chúng đi theo, làm nên sự nghiệp. Sau này, Đảng phát triển lên hàng triệu đảng viên, càng ngày càng mạnh lên. Trong đội ngũ đảng viên ấy, có bộ phận trở thành cán bộ của Đảng, của Nhà nước từ thấp đến cao. Họ thấm nhuần đường lối chính trị, đường lối tổ chức của Đảng và hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao phó.
Bây giờ, chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những vấn đề tích cực và tiêu cực đan xen nhau. Theo tôi nghĩ, không biết có chủ quan không nhưng vấn đề cán bộ bây giờ khó hơn. Việc đánh giá sao cho đúng là điều rất khó, từ quá trình làm việc, từ vị trí... Có nơi làm được, có nơi không. Chúng ta biết có nhiều cán bộ ở cấp tương đối cao mà tham nhũng lớn, đó là hậu quả của việc đánh giá, sắp xếp, đề bạt cán bộ quan liêu, không đúng.
Nhưng nói đi phải nói lại, sự nghiệp cách mạng của chúng ta phát triển chính là số đông trong đội ngũ của Đảng vẫn là người tốt. Giờ thấy tiêu cực nhiều quá mà cho rằng hỏng cả là không phải. Đảng lâu nay vẫn nói là một bộ phận cán bộ tiêu cực, gần đây lại nói là “một bộ phân không nhỏ”. Chỉ khi tin tưởng đại đa số vẫn là người tốt thì mới tin vào đường lối của Đảng.
Khi sử dụng nhân tài, Bác rất chú ý tới tư cách phẩm chất
PV: Nhiều năm qua, chúng ta đã thực hiện nhiều cuộc chỉnh đốn lớn trong Đảng, thực chất là chỉnh đốn tác phong, đạo đức, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên để loại trừ các yếu tố tiêu cực. Tuy nhiên, trên thực tế thì chúng ta vẫn để lọt vào hệ thống chính trị một số phần tử thoái hóa chính trị, tha hóa đạo đức. Thời gian gần đây có thể lấy ví dụ về trường hợp Dương Chí Dũng hay Nguyễn Xuân Sơn. Theo các vị khách mời, vì sao lại có hiện tượng đó? Phải chăng cơ chế lựa chọn, đào tạo, đề bạt cán bộ hiện nay có sơ hở?
Ông Lê Quang Thưởng: Những nhân vật vừa đề cập có thể lúc được đề bạt chưa bộc lộ, nhưng Dương Chí Dũng hay Nguyễn Xuân Sơn đều là những người được đào tạo, được thử thách từ dưới lên. Tuy nhiên, lựa chọn đúng nhưng bồi dưỡng, quản lý không tốt khiến cho những cán bộ này thoái hóa, biến chất, họ vì đồng tiền mà lung lay.
Hai nhân vật này tham nhũng, làm thất thoát tài sản lớn lắm. Đáng buồn có những công ty thất thoát hàng chục ngàn tỷ đồng, do những con người này thoái hóa mà chúng ta quản lý không tốt, không phát động được nhân dân giám sát họ đúng mức. Đó là lỗi của hệ thống, lỗi của những nhà lãnh đạo và có lỗi của những người làm công tác tổ chức cán bộ.
PGS.TS Đinh Xuân Thảo: Về công tác cán bộ, việc tuyển dụng, tuyển chọn nói chung tốt, nhưng xảy ra một số trường hợp thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật trở thành tội phạm thì cũng phải phân tích, đánh giá một cách khách quan.
Nói về cơ chế tuyển chọn cũng chỉ là một phần bởi vì những người khi tuyển dụng đều là những người tốt, quy trình tuyển chọn cán bộ của chúng ta ngày càng bài bản, chặt chẽ. Nhưng việc tu dưỡng, rèn luyện của cá nhân kèm theo đó là các điều kiện khách quan về mặt tổ chức cần phải có cơ chế xem xét, đánh giá, quản lý cán bộ như thế nào cho tốt.
Như Nguyễn Xuân Sơn từng là cán bộ cấp trưởng phòng nhưng được giao quyền rất lớn, được đi đàm phán, kí kết những hợp đồng hàng triệu USD… Đây là sơ hở trong công tác quản lý cán bộ khiến những người không có bản lĩnh, đạo đức tốt dễ dẫn đến sai phạm.
Điều đó khẳng định Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về công tác cán bộ là đúng đắn, chúng ta không thể chủ quan, lơ là việc phê bình, tự phê bình và công tác cán bộ phải là quá trình thường xuyên. Qua những vụ việc sai phạm đó, chúng ta phải rút kinh nghiệm.
Liên quan đến lĩnh vực doanh nghiệp, tập đoàn, cũng đáng tiếc là có thời kỳ khá dài thí điểm tổ chức các tập đoàn công ty của Nhà nước mà lại chưa có luật mà chỉ quy định bằng những văn bản cấp thấp là những Nghị định. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sai phạm.
Rút kinh nghiệm đó, sau khi có Hiến pháp 2013, về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để quản lý tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực kinh tế thì vừa bảo đảm phát huy nội lực, thu hút đầu tư mặt khác cũng phải quản lý chặt chẽ không dẫn đến thất thoát, gây thiệt hại cho kinh tế.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Tôi xin bổ sung một ý cũng rất quan trọng là trong điều kiện hiện nay xây dựng nhà nước pháp quyền cho nên bên cạnh kỷ luật của Đảng thì phải hết sức chăm lo tăng cường kỷ cương pháp luật của Nhà nước. Bởi vì, tất cả mọi cán bộ đảng viên dù ở cấp nào đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Đảng cũng phải hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật như trong Điều 4 Hiến pháp 2013 đã quy định. Theo tôi, phải siết chặt kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Mà bây giờ hệ thống pháp luật của ta so với thời kỳ trước đổi mới đã tăng lên rất nhiều trong tất cả các lĩnh vực để quản lý, giáo dục cán bộ, đưa cán bộ đảng viên vào hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Quay lại tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, cần nhắc lại ý rất quan trọng của Bác là tại sao trước khi thành lập Đảng, năm 1927, Bác đã nêu ra tư cách của người cách mệnh gồm 23 điểm, trong đó điểm “cần-kiệm-liêm chính” được Bác đặt lên hàng đầu. Ngoài ra còn có điểm “ít lòng ham muốn vật chất”.
Đến năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Bác lại nêu 12 điểm về tư cách của Đảng cách mệnh. Kết thúc 12 điểm đó, Người có một câu rất hay đó là: Muốn cho Đảng được vững bền/12 điểm ấy chớ quên điểm nào. Và trong thực tế cầm quyền, Bác đã lãnh đạo Đảng trong 24 năm cho nên Bác hiểu hết ý nghĩa của việc rèn giũa cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên nắm chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Bác là người rất tình cảm với cán bộ, nhưng Bác cũng rất nghiêm trong kỷ luật. Điển hình như vụ xử án Trần Dụ Châu – Cục trưởng Cục Quân nhu năm 1950 và sau này trong nhiều vụ khác, mặc dù rất thương cán bộ nhưng đã vi phạm pháp luật thì Bác đều xử lý nghiêm khắc. Đó cũng là bài học trong điều kiện hiện nay chúng ta phải siết chặt hơn kỷ cương pháp luật, trong đó có bài học về sử dụng, quản lý cán bộ.
Song cũng nên nhấn mạnh một điểm mà Bác Hồ rất quan tâm đó là mỗi cán bộ đảng viên phải tự rèn giũa mình. Bác cũng nêu ra rất nhiều điểm để mỗi tầng lớp, mỗi lực lượng có thể theo những điểm đó để tự răn mình. Vì dù có quản lý chặt chẽ đến mấy nhưng mỗi cán bộ, đảng viên không ý thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước, với nhân dân, với Đảng thì mọi quản lý kia cũng không hiệu quả.
Đối với con người, theo tôi, có 2 điều rất khó gần nếu không có bản lĩnh, không có đạo đức đó là tham muốn vật chất và tham muốn quyền lực. Vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên khi được giao trọng trách, như Bác Hồ đã căn dặn “dĩ công vi thượng”, tức là đặt công lên trên hết, không màng đến danh lợi, lợi ích riêng của mình.
Thực tế hiện nay, nhiều cán bộ không vượt qua được điều này, dẫn tới tình trạng lợi ích nhóm. Và từ lợi ích nhóm này hình thành nhóm lợi ích, nếu bị chi phối bởi cái đó thì sẽ không còn toàn tâm, toàn ý cũng như không còn đạo đức phẩm chất phục vụ cách mạng mà lao vào lo chức vụ, danh lợi cho mình.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng, khi sử dụng nhân tài, Bác rất chú ý tới tư cách phẩm chất, đặc biệt là những người có tính tự trọng cao. Làm thế nào bây giờ chúng ta có đội ngũ cán bộ toàn tâm toàn ý phục vụ mà không màng đến lợi ích vật chất?
Theo tôi, anh ở chức vụ này thì sẽ được hưởng lương, chế độ tương ứng thì cứ theo như vậy mà thực hiện, chứ đừng lợi dụng vị trí ấy để mưu lợi riêng thì sẽ tiêu cực. Đây là cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp, như Bác Hồ cũng từng nói: “đây là cuộc đấu tranh khổng lồ chống lại hư hỏng, tiêu cực, lỗi thời”. Cuộc chiến đấu này đòi hỏi nhiều lực lượng, phải có những giải pháp đồng bộ từ phía Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, đồng thời cũng từ phía cán bộ đảng viên, kể cả những người trí thức.
PV: Dư luận xã hội lâu nay vẫn xì xào khi đâu đó có chuyện sử dụng cán bộ theo kiểu "hậu duệ, quan hệ, tiền tệ, trí tuệ". Theo ông Lê Quang Thưởng, có chuyện này không và có dễ phát hiện ra không?
Ông Lê Quang Thưởng: Tôi khẳng định là có chuyện này. Có trường hợp có thể phát hiện được, có trường hợp khó phát hiện. Theo tôi, chạy chức, chạy quyền là hệ quả của quản lý kém và là hệ quả của mặt trái cơ chế thị trường tác động vào hệ thống chính trị và công tác cán bộ.
Cơ chế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn và phải làm như thế mới khiến cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta tiến lên được, nhưng đằng sau nó rất phức tạp, là mối quan hệ hàng hóa, vật chất làm lu mờ tai mắt của người cán bộ. Phải làm sao để khắc phục được mặt trái cơ chế thị trường trong công tác cán bộ, đây là một câu chuyện rất phức tạp nhưng chúng ta phải kiên quyết làm.
Theo tôi, Đảng và Nhà nước phải thường xuyên bổ sung chính sách, cơ chế để quản lý cho tốt, để khắc phục những lệch lạc, thiếu sót trong công tác lãnh đạo và quản lý. Bên cạnh đó, kỷ luật trong Đảng và Nhà nước phải thật nghiêm minh; những người có công phải được khen thưởng đúng mức; người có tội, có khuyết điểm phải xử lý nghiêm túc. Hiện nay, việc quản lý của ta chưa chặt chẽ, khen thưởng, kỷ luật chưa đúng mức, chưa nghiêm. Phát hiện tiêu cực chậm, phát hiện được nhưng xử lý cũng chậm và chưa công bằng nghiêm túc. Vấn đề này cần phải sửa.
Chúng ta không sợ kinh tế thị trường, đó là biện pháp để thúc đẩy nền kinh tế của chúng ta tiến lên.Phải biết phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường và phải cảnh giác, tìm mọi cách khắc phục mặt tiêu cực của nó.
PV: Thưa ông Đinh Xuân Thảo, nạn chạy chức, chạy quyền từng được nói tới nhiều trên một số kỳ họp Quốc hội. Một số đại biểu Quốc hội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội vụ về vấn đề này, tuy nhiên, câu trả lời nhận được chưa thỏa mãn. Ông có bình luận gì về vấn đề này?
TS Đinh Xuân Thảo: Nạn chạy chức, chạy quyền ở ta không phải là mới, cũng không phải ít được nhắc đến. Trên Nghị trường, đại biểu Quốc hội đã nêu ra và chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thậm chí cả Thủ tướng và Phó Thủ tướng. Thực tế chạy chức, chạy quyền là có. Người chạy kín đáo, không ai biết, nên dư luận nêu ra chỉ là có hiện tượng.
Khi đại biểu Quốc hội chất vấn về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Nội vụ trả lời “nếu đại biểu biết rõ trường hợp nào thì hãy nêu ra để chúng tôi xử lý”. Vấn đề là chỉ ra như thế nào là rất khó. Nhưng thực tế, để ngăn chặn việc này cần phải có một cơ chế đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc.
Ví dụ như Bộ Giao thông - Vận tải tổ chức thi tuyển công khai ở nhiều vị trí, người đủ điều kiện dự tuyển thể hiện được trình độ, năng lực tốt được cả Hội đồng đánh giá, như thế sẽ khắc phục được việc chạy chức, chạy quyền. Nếu không sẽ dẫn tới việc không công bằng, người được lựa chọn nhiều khi không xứng đáng.
Đó là một sự logic, người ta chạy chức phải mất một khoản tiền để có được vị trí đó nên khi đã vào được họ phải lo để kiếm lại bù đắp khoản tiền đã bỏ ra, còn thời gian đâu để nghĩ tới “chí công vô tư”. Nếu người có năng lực thực sự thì không đáng nói, nhưng người yếu kém cả về chuyên môn lẫn đạo đức sẽ gây hệ lụy rất nghiêm trọng.
Về dư luận đối với vấn đề lựa chọn cán bộ cũng có thể có. Nhưng tôi cho rằng đó không phải là hiện tượng phổ biến trong xã hội ta hiện nay. Bởi quy trình, công tác cán bộ, nhất là sau khi có Luật Công chức, Luật Viên chức, việc tuyển dụng thông qua hình thức thi tuyển cạnh tranh cũng có thể có tiêu cực, sơ sót, thiếu minh bạch nhưng đó chỉ là hiện tượng cá biệt. Dư luận nghĩ thế nhưng chúng ta cũng cần đánh giá khách quan.
Cơ bản đúng là hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa biến chất, tuy nhiên, đại đa số cán bộ đảng viên là tốt và chính nhờ vậy họ mới đưa được đất nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành nước phát triển trung bình về kinh tế; hội nhập kinh tế toàn diện, hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng rõ nét. Có được những điều này là do con người. Nếu nghĩ theo chiều hướng tiêu cực thì đất nước ta sẽ không được như hôm nay.
PV: Nạn chạy chức chạy quyền, bổ nhiệm cán bộ thiếu công tâm tuy không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng nó nguy hiểm như thế nào với sự tồn vong của Đảng và chế độ, thưa PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc?
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Điều đó đã được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 4. Nghị quyết này có đánh giá lại công tác xây dựng Đảng trong nhiều nhiệm kỳ trước. Nghị quyết cũng nhận định đa số cán bộ đảng viên là tốt, thì mới đưa đất nước vượt qua được những khủng hoảng, thách thức, đưa đất nước phát triển như hiện nay.
Nếu không có đội ngũ cán bộ đó làm sao có được đất nước như hiện nay. Cần bình tĩnh nhận định để đánh giá. Nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, còn nhiều khuyết điểm, trong những khuyết điểm ấy, Nghị quyết Trung ương 4 có nêu ra 3 vấn đề: Thứ nhất, là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên; Thứ hai là đào tạo cán bộ, đặc biệt cán bộ tầm chiến lược chưa được quan tâm đầy đủ; Thứ ba là trách nhiệm của người đứng đầu chưa được xác định rõ, thành tích thì nhận, khuyết điểm đẩy cho tập thể.
Nói về khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương 4 có nói tới một ý rất quan trọng đó là khuyết điểm này kéo dài trong nhiều nhiệm kỳ chứ không chỉ mới nảy sinh ở khóa 11. Những khuyết điểm kéo dài lại chưa được khắc phục, sửa chữa hiệu quả, và nếu không sửa chữa hiệu quả nó sẽ trở thành một thách thức đối với vai trò lãnh đạo và sự tồn vong của chế độ.
Từ khi chúng ta thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đến nay, lúc đầu cũng có phân vân, kiểm điểm rồi tự phê bình nhưng cũng không thấy “bộ phận không nhỏ” đâu, không thấy ai bị xử lý rõ ràng, nhất là cán bộ cấp cao. Sau đó mới đưa ra một số vụ tham nhũng nổi cộm trong xã hội để xử lý.
Tổng kết lại theo tài liệu của Ban Tổ chức Trung ương, từ năm 2012 cho đến hết 2014, ta đã xử lý tới 54.000 cán bộ, đảng viên bằng cả hình thức kỷ luật và pháp luật Nhà nước. Theo tôi, đó là một thể hiện của sự nghiêm minh của kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đương nhiên cũng không coi con số này là thành tích.
Nói thế để thấy rằng cuộc đấu tranh khắc phục tiêu cực, hư hỏng trong Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo tôi, phải trở lại luận điểm của Lenin đó là: Đảng cầm quyền có 2 nguy cơ lớn, một là sai lầm về đường lối, có thể dẫn tới thất bại (một số nước đã thất bại); hai là nguy cơ xa rời quần chúng, quan liêu tham nhũng. Ngoài ra, Lenin còn nêu ra 3 loại kẻ thù đó là: sự dốt nát, kiêu ngạo và hối lộ hay tham nhũng. Những người sáng lập ra CNXH, chế độ cộng sản đều đã có cảnh báo và Bác Hồ cũng đã nói nhiều tới những vấn đề đó, đặc biệt trong Di chúc.
Theo tôi, những khuyết điểm hiện nay, nếu nghiên cứu một cách cặn kẽ đầy đủ có thể thấy đó là những khuyết điểm trên đường phát triển, không tránh khỏi, đặc biệt, điểm xuất phát của ta từ một nước lạc hậu, chưa qua phát triển Chủ nghĩa tư bản, từ tác phong, tư duy, từ những tham muốn bản năng của con người. Vì thế cần phải bình tĩnh để gỡ từng bước, sửa chữa từng bước.

Tôi tin rằng nếu chúng ta kiên trì theo thực hiện tự phê bình trong Nghị quyết Trung ương 4 một cách bài bản và có phương pháp chắc chắn sẽ khắc phục được nhiều điều, chứ không chỉ riêng công tác cán bộ. Còn có nhiều vấn đề khác nữa đảm bảo cho công tác cán bộ, để người cán bộ vào vị trí lãnh đạo có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét