Loạt
bài phóng sự điều tra của nhóm phóng viên Báo Hà Nội Mới
Từ hy vọng biến thành
thất vọng
LTS: Kinh
doanh đa ngành là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương này, tận dụng
những lợi thế của ngành, thời gian qua Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đầu
tư kinh doanh viễn thông công cộng.
Sau 10 năm hoạt động, EVNTelecom không những không phát triển mà
còn bị thua lỗ nặng nề. Tuy nhiên, thay vì phải tìm ra những giải pháp cải tổ
yếu kém trong điều hành, quản lý và kinh doanh để cứu EVNTelecom, EVN lại vướng
vào những sai phạm khác.
Là một doanh nghiệp trực thuộc EVN, EVNTelecom ra đời (năm 1995)
với mục đích dựa trên cơ sở hạ tầng vững mạnh, công nghệ tiên tiến, kênh phân
phối rộng khắp để cung cấp những dịch vụ tiện ích, chất lượng ổn định, giá cả
cạnh tranh và đặc biệt đem đến cho khách hàng nhiều lựa chọn mới. EVN hy vọng
việc đầu tư ra ngoài ngành, trong đó có viễn thông là một việc làm sẽ hỗ trợ
cho hoạt động kinh doanh chính là sản xuất điện đang bị mất cân đối về tài
chính. Tuy nhiên, thực tế kinh doanh viễn thông những năm qua đã đem đến cho
EVN từ hy vọng đến thất vọng lớn khi mà gánh nặng tài chính do sự làm ăn thua
lỗ lớn gây ra...
Bỏ rơi lợi thế…
So với những đơn vị kinh doanh viễn thông, EVNTelecom là doanh
nghiệp có nhiều lợi thế trong kinh doanh. Trước hết về mạng lưới kinh doanh,
ngoài 10 trung tâm trực thuộc EVNTelecom còn có các đơn vị điện lực, công ty
điện lực trải rộng khắp trên 63 tỉnh, thành tham gia kinh doanh dịch vụ viễn
thông.
Đặc biệt về năng lực mạng lưới (cơ sở vật chất), EVNTelecom đã
tham gia vào các mạng cáp quang lớn nhất thế giới và khu vực, kết nối Việt Nam
với các nước trên thế giới qua các cổng truyền dẫn quốc tế: Cổng quốc tế Móng
Cái, Lạng Sơn, Mộc Bài, Khánh Bình (An Giang), Lao Bảo.
Với hệ thống cáp trên biển, EVNTelecom có thể đáp ứng nhu cầu cho
sự bùng nổ băng thông rộng chất lượng cao, các dịch vụ viễn thông khác trong
những năm tới và bảo đảm dự phòng an toàn cho mạng lưới viễn thông quốc gia.
Về mạng viễn thông trong nước, với mạng truyền dẫn đường trục quốc
gia gồm trên 40.000km cáp quang, mạng truyền dẫn của EVNTelecom đã có mặt tại
63 tỉnh, thành phố trên cả nước; sử dụng hệ thống đường trục Bắc - Nam chạy
song song đồng thời trên các tuyến dây tải điện 500kV, 220kV với công nghệ hiện
đại và dung lượng thiết kế lên đến 400Gbps…
Hệ thống mạng truyền dẫn nội hạt của EVNTelecom có độ an toàn, tin
cậy cao do được thiết lập bảo đảm chặt chẽ nguyên tắc mạch vòng bảo vệ. So với
các giải pháp khác, mạng truyền dẫn của EVNTelecom đã trở thành mạng truyền dẫn
có độ an toàn cao.
Bên cạnh những lợi thế về hạ tầng mạng, dịch vụ mạng CDMA 20001x
của EVNTelecom thể hiện những ưu thế rõ rệt khi so sánh với các dịch vụ hữu
tuyến và vô tuyến truyền thống khi triển khai cho vùng sâu, vùng xa, cung cấp
đa dịch vụ trên nền một hạ tầng mạng.
Câu hỏi lớn đang được đặt ra cho EVN là tại sao có nhiều lợi thế
về cơ sở vật chất cũng như con người như vậy mà viễn thông điện lực đang phải
gánh những khoản lỗ rất lớn và con số lỗ này sẽ ngày càng lớn hơn khi những cơ
hội kinh doanh cũng như hợp tác kinh doanh của EVNTelecom ngày càng đi vào ngõ
cụt.
…tự làm thua lỗ nặng nề
Doanh thu kinh doanh các dịch vụ viễn thông của EVNTelecom giảm
nghiêm trọng, cụ thể: tháng 1-2010: 180 tỷ đồng, giảm xuống 147 tỷ đồng vào
tháng 1-2011 và 134 tỷ đồng vào tháng 2-2011. Trong khi đó, tổng chi phí năm
2010 của EVNTelecom là 2.957 tỷ đồng, trong đó lãi vay là 257 tỷ đồng, khấu hao
cơ bản là 471 tỷ đồng, cước kết nối 303 tỷ đồng. Chi phí ngoài lãi vay và khấu
hao hằng tháng của EVNTelecom bình quân khoảng 160 tỷ đồng, bao gồm các chi phí
hoa hồng, thuê tài sản (cột anten, nhà trạm, cáp quang) và vận hành cho các
tổng công ty (TCT) điện lực, chi phí vận hành và quản lý mạng lưới của
EVNTelecom. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến cân đối doanh thu - chi phí của
EVN Telecom (hằng tháng EVNTelecom còn thiếu khoảng 16 tỷ đồng cho các hoạt
động thường xuyên của công ty, khoảng 10 tỷ trả lại các TCT điện lực sau khi bù
trừ và thiếu khoảng 150 tỷ đồng để trả nợ gốc và lãi cho các ngân hàng).
Doanh thu CDMA chiếm tỷ trọng chi phối trong tổng doanh thu viễn
thông của EVN (trung bình là 63% tổng doanh thu dịch vụ viễn thông năm 2010)
đang giảm mạnh từng tháng. Cụ thể: doanh thu dịch vụ CDMA trả sau giảm từ 88 tỷ
đồng vào tháng 1-2010 xuống 67 tỷ đồng vào tháng 1-2011 và 56 tỷ đồng vào tháng
2-2011.
Thực tế mạng CDMA 450 của EVNTelecom đang có lợi thế cạnh tranh cơ
bản là các dịch vụ điện thoại cố định không dây (E-COM), tuy nhiên, EVN không
đẩy mạnh được doanh thu do tốc độ phát triển thuê bao thực rất chậm, thuê bao
rời mạng liên tục tăng, cứ phát triển 1 thuê bao thì có trung bình 7,1 thuê bao
rời mạng.
Mặc dù, EVN có thế mạnh về cơ sở hạ tầng hệ thống cáp quang, nhưng
thế mạnh này không phát huy được do hạ tầng bị phân tán, không được quản lý,
vận hành và khai thác tập trung, khi sự cố xảy ra thì mất rất nhiều thời gian
xử lý do có nhiều đầu mối quản lý (một phần do các TCT điện lực và TCT truyền tải
quản lý, khai thác, một phần do EVNTelecom quản lý, khai thác). Trong giai đoạn
từ năm 2005 đến nay, dịch vụ cho thuê kênh luồng trong nước và quốc tế chỉ đạt
khoảng 30 tỷ đồng/tháng, không tương xứng với năng lực của hệ thống.
Hệ thống cáp quang biển IA đưa vào khai thác dịch vụ từ 2009, tuy
nhiên, việc kinh doanh thuê kênh quốc tế trên IA năm 2010 chưa đạt được kế
hoạch đặt ra, tổng doanh thu kinh doanh dịch vụ IA năm 2010 là 47 tỷ đồng (gồm
30 tỷ doanh thu cung cấp dịch vụ cho khách hàng và 17 tỷ doanh thu cung cấp
dịch vụ nội bộ).
Việc kinh doanh các dịch vụ internet không phát triển dẫn đến hiệu
quả tổng thể trong khai thác đường IA là rất thấp. Doanh thu kinh doanh dịch vụ
trực tiếp trên IA và dịch vụ internet không đủ để cân đối chi phí đầu tư ban
đầu cũng như chi phí vận hành của đường IA.
Tổng doanh thu các dịch vụ internet (leased lines, internet trên
truyền hình cáp, ADSL, FTTx) trung bình 11 tỷ đồng/tháng trong năm 2010. Dịch
vụ internet trên truyền hình đang suy giảm đáng kể, dịch vụ FTTx tăng doanh thu
cuối năm 2010 nhưng vẫn không đạt kế hoạch năm 2010.
Dịch vụ 3G mới đưa vào tháng 10-2010, doanh thu đạt khoảng 2 tỷ
đồng vào tháng 12-2010 và 2,2 tỷ vào tháng 2-2011 với số khách hàng phát sinh
cước khoảng 45 thuê bao. Sau 5 tháng phát triển dịch vụ, số lượng khách hàng
gần như không tăng, các loại dịch vụ gia tăng trên mạng 3G chưa hấp dẫn được
khách hàng (do chưa tạo ra sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh, chưa đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng).
Năm 2010, doanh thu của EVNTelecom chỉ đạt hơn 2 nghìn tỷ đồng và
lỗ khoảng hơn 1 nghìn tỷ đồng. Hệ số nợ của EVNTelecom lên đến 5,1 lần (theo
đó, nợ phải trả là 7.760 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 1.586 tỷ đồng). Khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn của EVNTelecom chỉ còn 31%.
Với doanh thu của các TCT điện lực hiện nay, sau khi trừ các khoản
EVNTelecom trả lại (thuê tài sản, hoa hồng...) không còn tiền để chi phí cho
các hoạt động của công ty, đồng thời phải trả lại các TCT điện trung bình từ 7
đến 10 tỷ đồng/tháng. Như vậy, với kết quả kinh doanh dịch vụ CDMA chủ yếu giao
cho các TCT điện lực thì EVNTelecom sẽ lỗ toàn bộ chi phí vận hành và chi phí
đầu tư mạng và còn phải bù lỗ thêm khoảng 10 tỷ đồng/tháng để bảo đảm mạng CDMA
phục vụ kinh doanh của các TCT điện lực.
Các khoản vay vốn và trả lãi cho các dự án đã đầu tư hoàn toàn nằm
ngoài khả năng thu xếp của EVNTelecom, hiện nay không có nguồn để trả các khoản
vay và lãi vay này.
Nhiều khoản nợ chưa thanh toán được cho các dự án CDMA cho các nhà
thầu… với số tiền xấp xỉ 25 triệu USD, mặc dù các dự án này đã xong từ năm 2008
và đã đưa vào sử dụng. Các dự án tự đầu tư từ năm 2007 đến nay còn khoảng 30 tỷ
chưa thanh toán được cho đối tác. Việc này cũng làm mất đi nhiều sự hỗ trợ tài
chính của các nhà thầu cho các dự án của EVNTelecom.
Toàn bộ các chi phí thường xuyên của riêng EVNTelecom (bao gồm cả
lương CBCNV, thuê nhà văn phòng, điện nước, bảo hiểm…) là 51 tỷ đồng/tháng và
được cân đối dựa vào nguồn thu từ kinh doanh kênh quốc tế và trong nước, tương
đương khoảng 35 tỷ đồng/tháng để cân đối. Tuy nhiên, trong 35 tỷ đồng này còn
phải chí phí trả cho việc thuê kênh và lưu lượng (China Unicom, China
Telecom...) nên không đủ để chi phí, thiếu ròng khoảng 16 tỷ đồng/tháng.
Như vậy, hằng tháng EVNTelecom thiếu hụt và không có khả năng
thanh toán tổng cộng khoảng 176 tỷ đồng, gồm: 150 tỷ đồng tiền trả vốn và lãi
vay ngân hàng (chưa tính cho dự án 3G); 10 tỷ đồng chi phí hoàn trả lại cho các
TCT điện lực (sau đối soát các khoản thuê lại các PCs); 16 tỷ đồng chi phí hoạt
động thường xuyên.
Chuyển nợ, lỗ cho khách hàng dùng điện gánh chịu
(HNM) - Khi EVNTelecom khó có khả năng trụ được với những khoản nợ
và lỗ ngày càng lớn thì cũng là thời điểm Chính phủ yêu cầu triển khai thị
trường điện. Cơ hội để EVNTelecom có lối thoát là thực hiện phương án tách một
sóng mang thuộc mạng CDMA 450 để phục vụ thị trường điện và hệ thống điện đo
đếm từ xa. Tuy nhiên, thực hiện phương án này đồng nghĩa với việc chuyển nợ và
lỗ sang giá điện và diễn nôm là, mọi khoản lỗ từ SXKD yếu kém của hoạt động
viễn thông đùn hết cho khách hàng sử dụng điện… gánh chịu.
Thủ thuật chuyển nợ
Theo phương án này, việc tách một sóng mang (carrier) trong 3 sóng
mang của mạng CDMA 450 để phục vụ thị trường điện sẽ thông qua hình thức chuyển
giao tài sản liên quan đến sóng mang tách ra trong số 3 sóng mang của CDMA 450
là hình thức "mua bán tài sản giữa EVN và EVNTelecom".
Để thực hiện tách một carrier, EVNTelecom sẽ phải tách các BTS
hiện có của mạng CDMA 450 để cung cấp một carrier tách ra, bao gồm các thiết bị
viễn thông tại BTS. Phần thiết bị tách ra sẽ được chuyển giao cho EVN thông qua
hợp đồng mua bán tài sản giữa EVN và EVNTelecom. Các tài sản là các thiết bị
truyền dẫn tại BTS đang sử dụng chung cho cả 3 sóng carrier của mạng CDMA 450,
các thiết bị viễn thông tại BTS liên quan đến phần sóng mang còn lại sẽ tiếp
tục do EVNTelecom quản lý và khai thác sử dụng. Tính đến ngày 30-6-2011, số
lượng BTS phục vụ một carrier tách ra là 2.098 BTS, như vậy, giá tách ra và
chuyển giao cho EVN là hơn 3.117 tỷ đồng và giá trị phần sóng mang thuộc
carrier thứ 2 và 3 để lại EVNTelecom chỉ còn khoảng 762,4 tỷ đồng. Với carrier
thứ 2 và 3 được giữ lại này chỉ phủ sóng một số tỉnh Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng… thì EVNTelecom sẽ gần như không còn gì để kinh doanh (!?).
Việc chuyển giao sang phục vụ thị trường điện với giá trị lớn gấp
hơn 4 lần giá trị giữ lại để EVNTelecom kinh doanh buộc phải đặt câu hỏi: nếu
thị trường viễn thông chưa có nhu cầu thì tại sao EVNTelecom lại đầu tư quá lớn
như vậy?
Trở lại vấn đề tách một carrier của mạng CDMA 450 của EVNTelecom
sang phục vụ thị trường điện và hệ thống điện đo đếm từ xa, đồng nghĩa với việc
chuyển giao giá trị mà EVNTelecom đang nợ sang cho thị trường điện phải gánh,
giá điện phải gánh và tóm lại là bổ vào "hầu bao" của khách hàng sử
dụng điện.
Để phục vụ thị trường điện, từ nay đến năm 2015, đo đếm tại các
nhà máy điện sẽ cần đọc khoảng 70-100 công tơ; đến giai đoạn bán buôn cạnh
tranh (2015-2020) mới có nhu cầu đo đếm đến cấp điện áp 110kV, nhưng cũng chỉ
đo đếm tại ranh giới giữa các Tổng Công ty (TCT) Điện lực và như vậy thì sau
năm 2015 mới cần đến. Trong điều kiện nền kinh tế và đời sống người dân
hiện nay, tại sao EVN không chọn giải pháp thuê kênh của EVNTelecom hay bất cứ
đơn vị viễn thông nào có giá thành hợp lý để không gây sức ép tăng giá điện?
Chưa hết, muốn triển khai hệ thống đo đếm từ xa sử dụng đo đếm
bằng CDMA, phải thay thế toàn bộ công tơ cơ hiện nay bằng công tơ điện tử. Hiện
EVN có khoảng 18 triệu khách hàng (EVN bán trực tiếp), nếu phải thay thế công
tơ điện tử thì sẽ phải cần đầu tư nhiều tỷ USD, đây là yếu tố thiếu tính khả
thi trong điều kiện hiện nay.
Hiện nay, giá công tơ 3 pha là 250 USD/1 công tơ. Theo lộ trình,
trong năm 2011 và hết năm 2012 sẽ lắp đặt được khoảng một triệu công tơ điện,
chưa kể chi phí thi công, riêng chi phí cho mua công tơ đã lên tới 250 triệu
USD. Nếu lấy con số công tơ khách hàng do ngành điện đang quản lý bán điện trực
tiếp là 18 triệu công tơ, sẽ phải chi phí vào tiền mua công tơ 4,54 tỷ USD. Đây
là con số không nhỏ nếu bị đẩy vào giá điện. Và đó là giải pháp lãng phí không
cần thiết và đầy nguy hiểm.
Điều dễ nhận thấy những khoản nợ lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng
của EVN đang được "treo" lại chưa được tính vào chi phí kinh doanh sẽ
là sức ép tăng giá điện.
Đó là khoản lỗ 11.000 tỷ đồng do mua điện giá cao từ một số nhà
máy điện độc lập. Sau khi cắt hết lợi nhuận của các công ty truyền tải, phân
phối đã rút xuống được lỗ cơ bản còn 8.000 tỷ đồng. Sau đó là khoản chênh lệch
tỷ giá, khoảng 17.000 tỷ đồng.
Với khoản lỗ 8.000 tỷ đồng, phương án giá điện năm 2011 (đã áp
dụng từ ngày 1-3-2011) nhưng chưa được tính vào giá điện. Sau khi có kết quả
kiểm toán cuối tháng 5, EVN sẽ báo cáo để đưa vào kế hoạch phân bổ trong kế
hoạch tăng giá điện tới. Còn khoản 17.000 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá, EVN đã báo
cáo Chính phủ phân bổ từng bước vào giá điện.
Các chuyên gia kinh tế đã nhiều lần lên tiếng về việc cần công
khai, minh bạch hóa quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, trong đó có
việc công bố các kết quả kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán chi phí kinh doanh
của các đơn vị này.
Chuyển giá điện theo cơ chế thị trường được đánh giá là hợp lý,
tuy nhiên, song song với nó cần phải có những cơ chế giám sát và kiểm soát hiệu
quả hoạt động đầu tư, kinh doanh của ngành điện.
Thiếu vốn nhưng lại đầu
tư vào ngân hàng, bất động sản
EVN là một ngành kinh tế đặc biệt quan trọng. Vì vậy, việc đầu tư
ra ngoài ngành của EVN phải được cân nhắc khi vốn cho các công trình điện đang
còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là khi Quy hoạch điện VII vừa được Chính phủ
phê duyệt, đã xác định nhu cầu huy động vốn lên tới 5 tỷ USD/năm cho giai đoạn
2010 - 2020 và khoảng 7,5 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2021-2030. Việc hình thành
cơ chế thích hợp để huy động vốn đầu tư vào ngành điện là bài toán mới đặt ra
đối với nền kinh tế trong điều kiện kinh tế thế giới cũng đang gặp khó khăn.
Trước đây, trong giai đoạn thực hiện Quy hoạch điện VI cũng vì
thiếu vốn, nên việc phát triển nguồn điện chỉ đạt 80% kế hoạch. Bên cạnh các
khó khăn liên quan tới giải phóng mặt bằng, năng lực quản lý của nhà thầu cơ
chế, tình trạng nợ tiền thanh toán nhà thầu diễn ra trên hầu hết công trình
điện… đã khiến nhiều dự án điện chậm tiến độ so với kế hoạch.
Những năm gần đây, EVN mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực tài chính,
bất động sản, viễn thông… Ví như, năm 2008, Công ty Tài chính cổ phần Điện lực
được chính thức thành lập và hoạt động với số vốn điều lệ là 2.500 tỷ đồng,
trong đó EVN sở hữu 40%. EVN cũng là cổ đông chiến lược của Ngân hàng thương
mại cổ phần An Bình (ABBank), một trong 10 ngân hàng TMCP có vốn điều lệ lớn
nhất Việt Nam hiện nay với vốn điều lệ đạt trên 3.830 tỷ đồng (tính đến tháng
12-2010). Ngoài ra, EVN còn liên kết với Công ty cổ phần Chứng khoán Hà Thành;
Công ty cổ phần Bất động sản Điện lực Sài Gòn Vina, Điện lực miền Trung,
EVNLand Nha Trang...
Về lĩnh vực viễn thông, năm 2009, EVN và Hanoi Telecom đã ký thỏa
thuận hợp tác chiến lược trong vòng 10 năm. Theo thỏa thuận trong 3 năm đầu
tiên, liên danh EVN Telecom (đơn vị trực thuộc EVN) và Hanoi Telecom sẽ đầu tư
khoảng 6.000 tỷ đồng cho triển khai dịch vụ 3G, bảo đảm phủ sóng tới 50% dân cư
khi cung cấp dịch vụ. Ngày 9-6-2010, đơn vị này đã chính thức cung cấp dịch vụ
3G ra công chúng.
Hiện chưa có một tổng kết đánh giá hay công bố chính thức nào về
hiệu quả đầu tư ra ngoài ngành, cũng như những khoản lỗ mà EVN đã gây ra khi
đầu tư ra ngoài ngành, nhưng các chuyên gia kinh tế về cơ bản cho rằng lợi đâu
chẳng thấy mà mới chỉ thấy thua lỗ. Vì thế, nay việc EVN chuyển nợ, lỗ của viễn
thông cho người dùng điện gánh chịu lại là một nguy hiểm mới trong quản lý.
Làm sai lệch giá trị
thực của giá điện
(HNM) - EVN kinh doanh viễn thông là lĩnh vực ngoài ngành, nhằm
tận dụng lợi thế cơ sở vật chất và cũng phù hợp với các quy định của pháp luật
nhằm huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
Vấn đề không bình thường ở đây khi EVN xử lý sự thua lỗ của viễn
thông bằng cách chuyển khoản lỗ này sang phần kinh doanh điện. Việc chuyển các
khoản lỗ từ kinh doanh viễn thông sang kinh doanh điện không chỉ làm sai lệch
giá trị thực của giá điện mà còn gây những hệ lụy khác về lòng tin của người
dân.
Thất bại viễn thông
Như chúng ta đã biết, EVN kinh doanh viễn thông với rất nhiều lợi
thế từ cơ sở vật chất của ngành. Tuy nhiên, kinh doanh điện và kinh doanh viễn
thông ở nước ta là hai lĩnh vực khác nhau quá xa. Vì thế, nếu EVN mang tư tưởng
kinh doanh điện sang kinh doanh viễn thông thì sẽ rất bất cập. Bởi lẽ, kinh
doanh điện ở nước ta vẫn còn là độc quyền tự nhiên; viễn thông thì phải cạnh
tranh quyết liệt.
Lợi thế về cơ sở vật chất cũng như nhân lực của EVN cũng chính là
cái bất lợi nếu EVN không tìm được cách điều hành hợp lý. Đơn cử, hệ thống cáp
quang có nhiều, đầy đủ nhưng lại thiếu sự liên kết trong quản lý (EVNTelecom và
các điện lực, tổng công ty truyền tải cùng tham gia quản lý và vận hành), một
hệ thống truyền dẫn cáp quang trên 63 tỉnh, thành có nhiều đơn vị khác nhau
quản lý và vận hành, điều này dẫn đến chậm và phức tạp khi xử lý sự cố, không
đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và đây chính là yếu tố gây trở ngại trong
điều hành và kinh doanh viễn thông.
Bên cạnh đó, hầu hết các tuyến cáp quang (cả phần thiết bị truyền dẫn lẫn cáp
quang) trong địa bàn tỉnh lại do các đơn vị điện lực tự đầu tư, không có quy
hoạch tổng thể toàn hệ thống 63 tỉnh, thành, thiếu tính đồng bộ, mạnh đơn vị
nào đơn vị ấy tổ chức đầu tư lắp đặt, sau đó kết nối với mạng đường trục của
EVNTelecom. Điều đó dẫn đến dễ bị tắc nghẽn khi nhu cầu thực tế khách hàng tăng
lên (vì thiết bị truyền dẫn không đủ năng lực, trong khi dung lượng và số sợi
cáp quang dư thừa), vấn đề này đã và sẽ tiếp tục cản trở việc kinh doanh viễn
thông của EVN khi cạnh tranh với VNPT và Viettel.
63 tỉnh, thành đều có đơn vị điện lực, vì thế đều có thể kinh
doanh viễn thông được. Đây là thế mạnh để phát triển khách hàng. Vì vậy, sau
khi được phép kinh doanh viễn thông công cộng, ban đầu EVN là doanh nghiệp phát
triển khách hàng với tốc độ khá nhanh. Nhưng do nhiệm vụ chính của điện lực là
kinh doanh điện, chức năng chăm sóc khách hàng không như viễn thông nên không
giữ được khách hàng. Các đơn vị điện lực đều phải thực hiện cùng lúc hai nhiệm
vụ là kinh doanh điện và kinh doanh viễn thông, trong khi đó EVNTelecom là đơn
vị kinh doanh viễn thông chính lại không tham gia kinh doanh trực tiếp, không
giao tiếp trực tiếp với khách hàng mà phải thông qua các đơn vị điện lực. Do
đó, EVNTelecom không nắm bắt kịp thời nhu cầu và phản ảnh của khách hàng. Điều
này đã khiến cho EVNTelecom bị xếp hạng chăm sóc khách hàng kém nhất trong các
đơn vị kinh doanh viễn thông.
Thêm nữa, CDMA là công nghệ duy nhất ở Việt Nam nên thiết bị đầu
cuối (handset - điện thoại mobile, điện thoại để bàn không dây) không được xã
hội hóa, không được bán trong các cửa hàng bán lẻ thông thường trên thị trường
mà phải mua từ các cửa hàng của EVN. Điều này dẫn đến khách hàng sử dụng thiết
bị đầu cuối của EVNTelecom không thể sửa chữa được ở cửa hàng điện thoại nào
như công nghệ của Viettel, Vinamobi… mà phải tìm đến địa điểm quy định, có nơi
một huyện mới có một điểm, rất bất tiện cho khách hàng. Do không được xã hội
hóa nên đã ảnh hưởng lớn đến việc chăm sóc khách hàng.
Cũng vì thiết bị đầu cuối không xã hội hóa được nên giá thành mua
rất cao, trong khi đó muốn cạnh tranh trên thị trường thì lại phải bán rẻ hơn
giá mua. Để bù đắp vào khoản chênh lệch này, EVNTelecom phải tính vào chi phí
khiến cho chi phí cao, càng mua nhiều thiết bị đầu cuối càng lỗ và hệ quả là
doanh thu mỗi ngày một giảm và kết quả là doanh thu không bù được chi phí, dẫn
đến kinh doanh bị lỗ.
Vì lý do trên, các tổng công ty điện lực không tiếp tục mua thiết
bị đầu cuối. Nhưng không mua thiết bị đầu cuối thì sẽ không phát triển được
khách hàng, không có thiết bị để thay thế cho khách, dẫn đến khách hàng rời
khỏi mạng EVNTelecom và như vậy đồng nghĩa với việc thị phần bị teo lại trong
khi kinh doanh viễn thông đang phải đối mặt với thị trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt.
Cho đến thời điểm này, EVN đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho dịch
vụ 3G nhưng không kinh doanh hiệu quả do chỗ có sóng, chỗ không. Cả dải miền
Trung chỉ có Đà Nẵng có sóng nhưng cũng không ổn định (do không đầu tư triển
khai khu vực này). Chất lượng mạng 3G như vậy không thể cạnh tranh được với Viettel
và VNPT cho nên rất ít khách hàng sử dụng dịch vụ 3G của EVN. Doanh thu của 3G
hiện nay (sau hơn một năm triển khai kinh doanh 3G) chỉ từ 2,5 đến 3 tỷ
đồng/tháng, thay vì với mức vốn đã đầu tư thì doanh thu phải đạt ít nhất 10 lần
mới đủ hoàn trả vốn trong 10 năm khấu hao.
Chuyển lỗ cho các đơn vị
điện lực!
Ngày 11-7-2008, EVN ban hành Quyết định số 415/QĐ-EVN-HĐQT về việc
ban hành Quy chế Quản lý tài chính đối với hoạt động viễn thông công cộng áp
dụng trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam, theo đó quy định, dịch vụ CDMA, đối với
các thuê bao trả sau, EVNTelecom mua thiết bị đầu cuối, các công ty điện lực
chịu chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối theo tỷ lệ 45% thì được hưởng 45% doanh
thu cước dịch vụ phát sinh; EVNTelecom hưởng 55%.
Ở thời gian này, EVNTelecom đã vay tiền để mua thiết bị đầu cuối
và các thiết bị này được giao cho các đơn vị điện lực bán. Như vậy, thiết bị
đầu cuối này được các đơn vị điện lực bán và giao lại cho EVNTelecom 55% giá
trị, 45% giá trị còn lại của thiết bị này các điện lực sẽ trả dần cho
EVNTelecom trong 5 năm, còn doanh thu được chia với tỷ lệ đơn vị điện lực 45%
và EVNTelecom 55%. Vậy tại sao việc kinh doanh lại bị lỗ?
Ngoài các yếu tố về mô hình tổ chức và công nghệ, phải kể đến các
quy chế tài chính đối với hoạt động viễn thông công cộng được áp dụng trong
EVN. Tính đến nay, đầu tư thiết bị của EVNTelecom đã lên tới khoảng 4.500 tỷ
đồng, với việc áp dụng quy chế tài chính chia tỷ lệ 45%/55% thì EVN phải đạt
doanh thu 9.000 tỷ đồng. Đây là con số không khả thi trong điều kiện kinh doanh
viễn thông hiện nay của EVN.
Khi EVNTelecom khó có khả năng vay tiền để đầu tư thiết bị đầu
cuối, ngày 29-9-2009, EVN lại ban hành Quyết định số 497B/QĐ-EVN về việc ban
hành quy chế quản lý tài chính thay cho Quyết định 415/QĐ-EVN-HĐQT ngày 11-7-2008.
Quyết định số 497B quy định: Đối với thuê bao phát triển từ ngày 30-9-2009 trở
về trước, các công ty điện lực chịu chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối theo tỷ lệ
45% và được hưởng 45% doanh thu cước dịch vụ phát sinh (sau khi đã trừ cước các
dịch vụ GTGT của các nhà cung cấp khác và chi phí khuyến mãi); EVNTelecom chịu
chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối là 55% và được hưởng phần doanh thu còn lại.
Đối với thuê bao phát triển từ ngày 1-10-2009, các công ty điện lực chịu trách
nhiệm đầu tư mua thiết bị đầu cuối và chịu 100% chi phí hỗ trợ thiết bị đầu
cuối thì các công ty điện lực được hưởng 60% doanh thu cước dịch vụ phát sinh
(sau khi trừ cước các dịch GTGT của các nhà cung cấp khác và chi phí khuyến
mãi); EVNTelecom được hưởng phần còn lại.
Sau khi phân tích tài chính năm 2009 của EVNTelecom thấy bị lỗ
khoảng 1.026 tỷ đồng, vào tháng 3-2010 EVN đã quyết định chuyển toàn bộ khoản
lỗ này sang các tổng công ty điện lực bằng quyết định tăng giảm vốn đầu tư của
EVN tại công ty con. Khoản tiền này sẽ được treo nợ trả dần trong 5 năm kể từ
năm 2009.
Thực chất của bài toán chuyển tài sản này sẽ làm giảm lỗ trên sổ
sách của EVNTelecom, giúp cho bức tranh tài chính của EVNTelecom có vẻ sáng sủa
hơn. Để giảm lỗ cho EVNTelecom, cũng trong tháng 3-2010, EVN lại quyết định áp
dụng thay thế tỷ lệ 45%/55% bằng tỷ lệ 30%/70% áp dụng để tính toán cho năm
2009.
Mỗi năm, ngành điện cần tới hàng chục nghìn tỷ đồng để phát triển
các công trình nguồn, lưới... EVN thiếu vốn là một thực tế. Nhưng sự việc xử lý
các khoản lỗ của EVNTelecom và những hệ lụy của nó đã làm sai lệch sự nhìn nhận
của người dân đối với giá điện.
Những dích dắc trong lựa chọn đối tác chiến lược và ẩn các khoản
lỗ!
(HNM) - Để cứu thua lỗ cho EVNTelecom, EVN đã tìm cách chọn đối
tác chiến lược và ẩn các khoản lỗ vào đầu tư kinh doanh điện. Tuy nhiên, cách
chọn đối tác chiến lược và cách ẩn các khoản lỗ một cách rất… dích dắc lại gây
khó khăn cho EVNTelecom cũng như sự minh bạch trong điều hành quản lý của EVN,
nếu không nói đến những hệ lụy trên bình diện tổng thể đã và đang xảy ra.
Dích dắc trong lựa chọn đối tác chiến lược
Năm 2008, EVNTelecom tiến hành cổ phần hóa (CPH) với việc bắt tay
với một doanh nghiệp của Triều Tiên, nhưng sau một thời gian thương thảo thì
dừng lại. Đến tháng 10-2009, EVNTelecom tiếp tục lựa chọn đối tác chiến lược
trên cơ sở 7 đối tác đăng ký tham gia và chốt lại 2 đối tác là Singapore và
Malaysia. Sau khi tổ chức chào giá và thực hiện một số điều kiện khác để lựa
chọn, EVN quyết định lựa chọn Singapore làm đối tác chiến lược với điều khoản
đối tác mua 30% giá trị EVNTelecom dưới dạng phát hành thêm cổ phiếu (tức vốn
Nhà nước được giữ nguyên và giá trị doanh nghiệp được tăng thêm). Để tiến hành
các thủ tục tiếp theo, đối tác Singapore đã đặt cọc 15 triệu USD. Hồ sơ được
tiến hành theo trình tự và đến tháng 7-2010 thì hoàn tất trình Chính phủ.
Trong lúc hồ sơ đang được trình lên Chính phủ thì Công ty cổ phần
Phát triển Đầu tư công nghệ (FPT) có văn bản gửi EVN đề nghị được mua 60% nhưng
là mua giá trị vốn Nhà nước trong tổng vốn tài sản EVNTelecom. Và thế là EVN đã
quyết định lựa chọn FPT thay cho STT (Singapore). Hồ sơ lại làm từ đầu, và
tháng 1-2011 Chính phủ có văn bản chấp thuận cho FPT trở thành nhà đầu tư chiến
lược của EVNTelecom. Thế nhưng, đúng vào thời điểm FPT được Chính phủ chấp
thuận là đối tác của EVNTelecom thì FPT lại xin được rút lui. Ngay sau đó, EVN
xem xét lựa chọn Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện (VTC) là đối tác
chiến lược của EVNTelecom. Theo điều kiện thương thảo của VTC, trong hợp đồng
mua cổ phần, EVN chấp thuận cho EVNTelecom quyền quản lý toàn bộ các cột điện,
cột đèn, cột thông tin, nhà trạm hay kết cấu khác có thể dùng để treo hay đặt
dây dẫn thông tin, thiết bị viễn thông, truyền hình.
Khi EVN đem tài nguyên viễn thông quốc gia được Nhà nước giao cho
quản lý để tiến hành... cổ phần hóa (hợp tác với VTC bằng việc VTC mua cổ
phần), ngày 26-8-2011, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có ý kiến bằng văn bản
(số 91/TB-BTTTT), về phương án đầu tư của VTC mua cổ phần của EVNTelecom. Văn
bản này nêu rõ: Cam kết của EVN về chuyển giao cơ sở hạ tầng của EVN tại các
địa phương cho VTC sử dụng; tần số sử dụng cho CDMA 450Mhz 2000xl là tài nguyên
viễn thông quốc gia do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp cho EVNTelecom để kinh
doanh dịch vụ viễn thông di dộng, cố định không dây trên phạm vi toàn quốc,
theo phương án sắp xếp tổ chức gắn liền với tài sản thuộc tần số sử dụng cho
mạng CDMA 450Mhz để điều hành hệ thống thông tin ngành điện và giao cho EVNTelecom
quản lý là đơn vị sẽ tách khỏi EVN sau khi CPH là chưa có cơ sở pháp lý, không
phù hợp với các quy định của pháp luật.
Trở lại chuyện chọn đối tác trước đó. Thực tế, EVN đã nghiên cứu
và có một quá trình thương thảo với STT (Singapore) trên cơ sở lựa chọn 7 đối
tác đăng ký tham gia. Các bước tiến hành lựa chọn của EVN đã rất cẩn trọng và
đúng trình tự nhưng rồi đột ngột EVN lại chọn FPT. Hồ sơ được hoàn thiện trong
3 tháng, nhưng rồi cho đến khi Chính phủ ban hành quyết định, FPT lại lên tiếng
rút lui.
Trong thời gian chờ Chính phủ chấp thuận là đối tác chiến lược của
EVNTelecom sau khi CPH, FPT đã đề nghị EVN (và đã được EVN chấp thuận) không
triển khai tiếp 3G khu vực miền Trung, hạn chế đầu tư các tỉnh còn lại, dùng
mạng Metro và Core Internet (hai mạng này chủ yếu cung cấp dịch vụ Internet)
của FPT Telecom. Điều này dẫn đến toàn bộ khu vực từ Thanh Hóa vào đến Nha
Trang chất lượng sóng 3G chưa thể đủ điều kiện để kinh doanh. Cần hiểu là, việc
bảo đảm chất lượng dịch vụ 3G và Internet để kinh doanh phải phụ thuộc vào tiến
độ xây dựng mạng Core Internet và mạng Metro mà FPT dự kiến triển khai. Hiện
nay, tốc độ triển khai mạng Metro của FPT chậm không đáp ứng được tiến độ lắp
đặt NodeB (đầu mối để cung cấp dịch vụ tới khách hàng) ở 7 tỉnh và thành phố
lớn. Trong khi đó, các Tổng công ty (TCT) Điện lực không có vốn để triển khai
xây dựng cơ sở hạ tầng cho các NodeB, một phần nguyên nhân là chờ quyết định về
CPH của EVNTelecom để biết giá trị thuê tài sản giữa EVNTelecom với các TCT
Điện lực nên không triển khai xây dựng trạm, cột antena và cáp quang theo kế
hoạch. Do phải "chốt" được đối tác chiến lược của EVNTelecom thì EVN
mới triển khai được việc bảo lãnh vay vốn, nên việc triển khai 3G giai đoạn 2
cũng bị ảnh hưởng do việc giải ngân giai đoạn 1 đang bị dừng lại vì phía ngân
hàng không đồng ý giải ngân tiếp. Giai đoạn 2 lại chưa ký được hợp đồng vay vốn
(tuy nhà thầu đã chuyển được 90% số lượng thiết bị và lắp đặt tại các tỉnh).
Những dích dắc trong việc lựa chọn đối tác chiến lược cho
EVNTelecom như đã nêu trên làm nhiều người trong ngành đặt câu hỏi: Phải chăng
EVN quá dễ dãi hay có gì đó không minh bạch (bởi lẽ việc dích dắc này càng làm
cho EVNTelecom đã khó khăn lại càng khó khăn hơn).
Biến lỗ lớn thành lỗ…
nhỏ
Căn cứ vào các quy chế quản lý tài chính đối với hoạt động kinh
doanh viễn thông công cộng áp dụng trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) do
Hội đồng quản trị EVN ban hành theo các quyết định, thì ngoài khoản lỗ của
EVNTelecom sẽ còn khoản lỗ từ các đơn vị điện lực tương ứng với tỷ lệ đóng góp
và được hưởng từ doanh thu. Như vậy, khoản lỗ từ kinh doanh viễn thông của các
đơn vị điện lực cũng tương đương với khoản lỗ của EVNTelecom. Nhưng tại sao
khoản lỗ của các đơn vị điện lực lại không được thể hiện trong sổ sách hạch
toán? Đây là một cách đẩy các chi phí viễn thông vào chi phí kinh doanh điện
của các đơn vị điện lực.
Cần phải nói về chức năng kinh doanh viễn thông của các đơn vị
điện lực. Các đơn vị điện lực phải kinh doanh trực tiếp các dịch vụ viễn thông,
trong đó bao gồm: CDMA, dịch vụ 3G, thuê bao kênh luồng, internet. Từ các công
việc này, các đơn vị điện lực phải chi phí để lập các cửa hàng bán thiết bị đầu
cuối, sửa chữa thiết bị, phát triển khách hàng. Để kinh doanh viễn thông, các
đơn vị điện lực đã chủ yếu sử dụng nhân lực của kinh doanh điện và tuyển dụng
thêm nhân lực không đáng kể. Ngoài các chi phí đầu tư cơ sở vật chất, trả
lương, thuê đối tác đại lý, chi phí quản lý…, các đơn vị điện lực còn phải chi
phí đầu tư mua thiết bị đầu cuối - có nghĩa, nếu các đơn vị điện lực hưởng tỷ
lệ doanh thu 45% thì cũng phải chi phí đầu tư 45% giá trị mua sắm thiết bị đầu
cuối. Như vậy, các đơn vị điện lực sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí đầu tư khá
lớn trong lúc kinh doanh điện cũng bị lỗ, vốn đầu tư phát triển lưới điện phân
phối của các đơn vị điện lực thiếu trầm trọng.
Theo giá trị quyết toán, giá trị chuyển từ EVNTelecom sang các đơn
vị điện lực trong phương án tách 1 sóng mạng thuộc mạng CDMA 450 để phục vụ thị
trường điện, chi phí đầu tư bình quân cho một BTS là hơn 1,4 tỷ đồng. Như vậy,
tổng số BTS đã đầu tư là gần 2.900 BTS, trong đó, EVNTelecom chỉ đầu tư khoảng
hơn 200 BTS, số còn lại do các đơn vị điện lực đầu tư.
Đầu tư phục vụ dịch vụ 3G cũng do các đơn vị điện lực chịu trách
nhiệm, trong 6.000 BTS hiện có thì có khoảng 2.000 BTS đầu tư trước đây cho
dịch vụ 2G, đầu tư mới còn khoảng 4.000 BTS (giá đầu tư 1 BTS 3G khoảng 1.700
USD).
Để không bị lỗ trên sổ sách, các đơn vị điện lực đã phải đưa các
khoản chi phí đầu tư các điểm bán hàng, trả lương, chi phí quản lý vào chi phí
kinh doanh điện. EVN cũng cho phép EVNTelecom được sử dụng các chi phí thu được
từ quản lý dây, cáp viễn thông và thông tin của đơn vị khác treo trên cột điện
để hạch toán thay cho phải đưa vào để giảm chi phí kinh doanh điện vì các tài
sản này đã được tính vào chi phí để cấu thành giá điện. Vậy vốn đầu tư để kinh
doanh viễn thông của các đơn vị điện lực được lấy từ đâu nếu không "đánh
bùn" sang nguồn vốn kinh doanh điện? Đây quả là một cách hạch toán… kỳ lạ.
Như vậy, có thể nói để cứu sự thua lỗ nghiêm trọng khi đầu tư ra
ngoài ngành (EVNTelecom), EVN đã áp dụng một số cách làm… kỳ lạ. Những cách
"giải cứu" kỳ lạ này đã làm méo mó giá trị đầu tư, giá điện và gây ra
những hệ lụy toàn cục khác - đó là chưa nói đến những thiệt hại đã và đang xảy
ra.
Nhóm PV điều tra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét