Tìm kiếm

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2011

Những bài học về quyền lực Nhà nước từ doanh nghiệp


Bài học về quyền lực Nhà nước từ mô hình công ty cổ phần
Nguồn : Tạp chí Tia Sáng, Tác giả Võ Trí Hảo
Một công ty cổ phần chỉ thực sự duy trì được bản chất là công ty của cổ đông, do cổ đông, vì cổ đông, khi bảo vệ được yếu tố minh bạch trong quyền lực điều hành. Đây cũng là quy luật tất yếu để chúng ta đánh giá liệu một Nhà nước có thực sự là của dân, do dân, và vì dân.
Quyền lực Nhà nước đến từ đâu?
Mayflower Compact đóng vai trò là hiến pháp cho
chính quyền Plymouth trong những ngày đầu tiên
Thủa hồng hoang, khi loài người mới hình thành, thì những tập tính của động vật còn rất rõ nét, chưa có trật tự như xã hội ngày nay. Khi đó con người có thể có những “quyền” nguy hiểm, gây ảnh hưởng tới sự an nguy và quyền lợi tối thiểu của cá nhân và cộng đồng. Gọi là “quyền” vì người ta có thể thực hiện hành vi mà không phải xin phép ai, ví dụ như việc người này tàn sát hay cướp bóc người khác - cũng tựa như việc hai con bò húc nhau - không phải xin phép ai. Nhưng loài người thông minh đã nhanh chóng nhận ra sự tồn tại của cá nhân và cộng đồng không thể duy trì, phát triển nếu kéo dài thực tế này. Nên họ đã cùng nhau thỏa thuận loại bỏ những quyền nguy hiểm như vậy và đảm bảo điều này bằng việc giao quyền kiểm soát cộng đồng cho một chủ thể trung gian. Chủ thể trung gian này chính là tiền thân của Nhà nước.
Ngoài ra, người ta cũng nhận ra cần phải tập hợp quyền lợi kinh tế manh mún của nhiều cá nhân lại vào tay một chủ thể trung gian có năng lực điều hành, qua đó làm tăng quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực của cộng đồng. Chủ thể trung gian ấy cũng chính là Nhà nước. Việc tập trung quyền lực vào tay một chủ thể trung gian cũng tương tự như một công ty cổ phần được thành lập bởi các cổ đông, khi họ thấy rằng từng thành viên tiếp tục làm ăn riêng lẻ không mang lại hiệu quả, vì vậy cần trao quyền định đoạt tài sản cá nhân của mình sang bàn tay của một chủ thể trung gian bằng hình thức góp vốn. 
Nếu như nhân dân đóng góp chủ yếu cho nhà nước bằng tiền thuế và sức lao động dưới hình thức lao động công ích và nghĩa vụ quân sự; thì các cổ đông chủ yếu đóng góp cho công ty bằng tiền. Nhưng thay vì đầu tư hết tiền bạc vào công ty, các cổ đông khôn ngoan bao giờ cũng giữ lại cho mình một góc tài sản để chi dùng cá nhân. Tương tự như vậy các thành viên xã hội cũng không dại gì tự nguyện trao hết tất cả các quyền của mình cho nhà nước: phần quyền còn giữ lại này chính là các quyền tự do cơ bản của công dân thường được ghi nhận trong các tuyên ngôn nhân quyền, trong các bản hiến pháp.
Như vậy, bản chất vấn đề ở đây không phải là nhà nước trao quyền cho các thành viên xã hội, mà là ngược lại – các thành viên xã hội trao quyền cho nhà nước. 
Qua việc phân tích nguồn gốc quyền lực của công ty cổ phần và của nhà nước, chúng ta có thể thống nhất với nhau một số điểm: 
-    Nhà nước và công ty là chủ thể nhân tạo, nên nó không có quyền tự thân. Tất cả quyền mà nhà nước là do nhân dân trao cho, cũng như quyền lực công ty là do các cổ đông thành viên trao cho. 
-    Mọi hành vi của công ty, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng, đều phải nằm trong một khuôn khổ được các cổ đông đồng ý từ trước. Tương tự như vậy, mọi hành vi của Nhà nước điều chỉnh, can thiệp vào những quyền tự do của công dân khi xã hội trước đó đã đồng ý về điều này.  
-    Khi công ty làm ăn thua lỗ, cũng như khi nhà nước không còn đáp ứng được mục đích nhân dân đặt ra thì các thành viên có thể từ chối tiếp tục đóng góp hoặc trong trường hợp trầm trọng thì có thể tiến hành giải thể. 
-    Tài sản chi dùng cá nhân là độc lập với tài sản công ty, thì nhân quyền là góc quyền tự do của từng cá nhân, nhà nước không được phép xâm phạm. 
Hiến pháp và điều lệ công ty
Giữa hiến pháp và điều lệ công ty có những điểm tương đồng rất cơ bản.
Nếu hiến pháp quy định về việc thành lập, hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ chốt như quốc hội, thủ tướng, tòa án, kiểm toán thì điều lệ công ty sẽ quy định về hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát, kế toán ...  những thiết chế chủ chốt của công ty.
Nếu hiến pháp quy định mối quan hệ giữa nhà nước và công dân thì điều lệ công ty điều chỉnh mối quan hệ giữa cổ đông và công ty. Nếu các công dân thực hiện quyền lực trực tiếp thông qua trưng cầu dân ý, thì các cổ đông thực hiện quyền lực trực tiếp thông qua đại hội cổ đông; nếu các công dân thực hiện quyền lực gián tiếp thông qua quốc hội, chính phủ, tòa án thì các cổ đông của mình cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến đường lối, các quyết định của công ty thông qua lá phiếu bầu hội đồng quản trị. 
Nhưng trên tất thảy, điểm tương đồng lớn nhất giữa hiến pháp và điều lệ công ty là ở chỗ, cả hai đều là những khế ước được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa các thành viên. Điều lệ công ty là một bản khế ước thỏa thuận giữa các cổ đông để phục vụ quyền lợi cao nhất của các cổ đông. Tương tự như vậy, hiến pháp là một bản khế ước được thỏa thuận bởi nhân dân để phục vụ quyền lợi cao nhất của nhân dân.
Chính vì vậy hiến pháp là một loại khế ước đặc biệt mà Rousseau gọi là khế ước xã hội. Khế ước xã hội hiện thân một cách minh thị[1] ở các bản hiến pháp thành văn hoặc hiện thân một cách mặc thị ở các quốc gia có "hiến pháp bất thành văn”. 
Lời nói đầu Hiến pháp bang Massachusetts năm 1780 đã trực tiếp đồng nhất hiến pháp và khế ước xã hội như sau:
"Cơ quan chính trị được thành lập bởi liên minh tự nguyện giữa các cá nhân; nó là một khế ước xã hội, qua khế ước này toàn thể nhân dân ký kết thảo ước với từng công dân, và mỗi công dân ký kết với toàn thể nhân dân rằng mọi người sẽ bị điều hành bởi những luật nhất định vì mục tiêu tốt lành chung”.
Một ví dụ kinh điển nữa cho hình thức thể hiện minh thị của khế ước xã hội là Mayflower Compact[2]:
Vào năm 1620 thì một nhóm bất đồng về tôn giáo (Pilgrim) đã rời bỏ nước Anh trên con thuyền mang tên là Mayflower để đi tìm vùng đất tự do cho mình. Khi con thuyền còn lênh đênh trên đại dương thì các thành viên có mặt trên con tàu đã bàn định về “nhà nước” tương lai của mình. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1620, họ đã cùng nhau ký một thỏa thuận (Compact tiếng Anh cổ có nghĩa là hợp đồng) về sau được giới học thuật gọi là Mayflower Compact để thiết lập nên “nhà nước” tương lai của mình. Khi con tàu cập bến vào vùng đất trống mà ngày nay là Plymouth - USA, thì Mayflower Compact đã đóng vai trò là hiến pháp cho chính quyền Plymouth trong những ngày đầu tiên.  
Tuy không trực tiếp, rõ rệt nhưng chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy hình bóng[3] về khế ước xã hội ngay trong bản hiến pháp đầu tiên của lịch sử Việt Nam – Hiến pháp 1946. 
Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 ghi:
“Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,...”
Sau đó Điều 70 khoản c quy định về thủ tục sửa đổi hiến pháp như sau:
"Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”.
Hành động phúc quyết ở đây có thể ví với hành động phê chuẩn hợp đồng.
Những cách giải thích không minh bạch về quyền lực Nhà nước 
Trước khi có quan điểm “nhà nước của dân, do dân, vì dân“ được các quốc gia văn minh chấp nhận rộng rãi từ thế kỷ 18, các nhà nước phong kiến luôn đưa ra những sự giải thích rối rắm, huyền bí khi giải thích về nguồn gốc Nhà nước và bản chất quyền lực Nhà nước. Các vị vua phong kiến đã hậu thuẫn cho các học thuyết thần quyền về nguồn gốc nhà nước để lý giải cho sự cai trị độc đoán của mình và trạng thái vô quyền của nhân dân. Các học thuyết này đều có điểm chung: nhà vua nhận quyền lực từ một đấng siêu nhiên (Ngọc hoàng ở phương Đông, hay Thượng đế ở phương Tây) để thiết lập nên nhà nước và thay mặt đấng siêu nhiên trị vị nhà nước đó; nếu nhân dân chịu cảnh lầm than bởi bàn tay tàn bạo của một vị vua nào đó, thì họ không nên lật đổ nhà vua, mà nên tự sám hội, xem xét xem dân tộc đó đã phạm lỗi gì để thượng đế nổi giận cử một ông vua như vậy xuống trần gian trừng phạt dân tộc đó. 
Vào cuối thế kỷ 17, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật thì các học thuyết thần quyền không còn chỗ đứng, nhưng nhân loại lại phải tiếp tục đối mặt với các nhóm học thuyết của những thể chế độc tài, ví dụ như học thuyết giám hộ. 
Học thuyết giám hộ thừa nhận về nguyên tắc thì quyền lực nhà nước là thuộc về toàn dân giống như học thuyết khế ước xã hội, nhưng trong đó khẳng định rằng vì trình độ dân trí thấp, không đủ khả năng nắm bắt các vấn đề phức tạp trọng đại của quốc gia, nên người dân cần chấp nhận đi theo sự dẫn dắt của lãnh đạo quốc gia, giống như đứa trẻ vị thành niên cần phải có người giám hộ trong các giao dịch dân sự có giá trị lớn vậy. Học thuyết này có ưu điểm là vừa xoa dịu được sự phản kháng của tầng lớp thiểu số, bởi họ thừa nhận nhà nước là của toàn dân, vừa bảo đảm được đặc quyền chính trị của kẻ thống trị bởi họ được ghi nhận là người giám hộ. Trong lịch sử, chế độ bảo hộ của thực dân Pháp lên nước ta là một ví dụ điển hình cho học thuyết giám hộ. 
Không như học thuyết khế ước xã hội thừa nhận trọn vẹn Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, thì các học thuyết trên đây phủ một màn sương mù lên quyền lực nhà nước làm cho quyền lực nhà nước như một con rồng thần bí, nhân dân chỉ thấy cái đầu rồng, còn thân và đuôi của nó thì ẩn trong mây. Các học thuyết này làm giảm tính minh bạch của quyền lực nhà nước, tạo điều kiện hoặc hợp thức hóa cho sự lạm quyền. 
Vì sao cần minh bạch trong trao quyền điều hành
Ở trong mỗi công ty, sợi dây liên hệ giữa lợi ích cổ đông và quyền lực thành viên hội đồng quản trị cùng các lãnh đạo khác là rất rõ ràng. Việc lựa chọn nhầm người cầm quyền ở công ty ngay lập tức gây ra sự sụt giảm cổ tức của cổ đông, và khi điều này xảy ra thì những người cầm quyền này sẽ nhanh chóng phải ra đi, không cứ họ phải có một vi phạm nhỏ nào, mà chỉ đơn giản là khi không đáp ứng được lợi ích kỳ vọng của các cổ đông. Hay nói cách khác sợi dây lợi ích trong công ty là rất minh bạch và nhạy bén theo cả hai chiều. Khi duy trì được sợi dây này thì sẽ tạo động lực mạnh mẽ buộc người lãnh đạo công ty phải phấn đấu nỗ lực trong việc bảo vệ và phát huy quyền lợi của cổ đông nếu muốn duy trì quyền lực. 
Cũng tương tự như vậy, trong việc trao quyền cho người điều hành một Nhà nước, cũng phải có một sợi dây liên kết mật thiết giữa lợi ích của nhân dân và quyền lực của người lãnh đạo. Nếu như quyền lực của lãnh đạo Nhà nước được quyết định chủ yếu bởi những tác nhân nằm ngoài lợi ích của cử tri, thì người lãnh đạo sẽ ít quan tâm lợi ích của cử tri vì lợi ích của cử tri không đóng vai trò sống còn đối với sự nghiệp chính trị của họ.
Minh bạch trong đánh giá hiệu quả hoạt động 
Đối với công ty cổ phần có một công cụ đánh giá vô cùng nhanh nhạy đối với hiệu quả hoạt động của công ty đó là thị trường chứng khoán. Chỉ cần một quyết định bổ nhiệm CEO hay sự ra đi của một nhân sự cao cấp của công ty có thể làm cho giá cổ phiếu của công ty thay đổi ngay tức thì. Chiến lược kinh doanh, sản phẩm mới và kể cả những vụ bê bối đều được phản ánh thông qua sự trồi sụt giá cổ phiếu của công ty. 
Đáng tiếc là đối với nhà nước không thể nào có một công cụ như vậy. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm tài chính như Standard & Poor, Moody có thể xếp hạng tín dụng của các quốc gia; Humanright Watch có thể đưa ra các chỉ số về quyền cơ bản của công dân... Nhưng không có một chỉ số nào đánh giá một quốc gia toàn diện khách quan nhanh nhạy như chỉ số chứng khoán đối với công ty. 
Vì thiếu một công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động kiểu như thị trường chứng khoán, nên các chính trị gia dễ dàng huyễn hoặc dân chúng về những thành công của mình, hoặc thoái thác trách nhiệm để có thể tái cử một cách dễ dàng.
[1] Theo GS Nguyễn Văn Bông thì khế ước xã hội chỉ tồn tại dưới dạng mặc thị, không tìm thấy dưới dạng minh thị. Nhưng tôi thì cho rằng khi GS Bông đưa ra quan điểm này đã bỏ qua Hiến pháp Massachusetts và Mayflower Compact năm 1620. Xem Nguyễn Văn Bông (1974), Hiến pháp và chính trị học – Quyển I,NXB Luật Khoa Sài Gòn, tr. 73
[3] Tuy hiến pháp 1946 không trực tiếp khai sinh ra một nhà nước mới như trường hợp Mayflower Compact hay hiến pháp bang Massachusetts năm 1780, nhưng đã đóng vai trò là cơ sở cho việc vận hành quyền lực nhà nước của chính quyền cách mạng, làm cơ sở cho nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đưa tinh túy của tinh thần doanh nghiệp vào bộ máy Nhà nước
Nguồn : Tạp chí Tia Sáng, Tác giả Võ Trí Hảo
Cách nhìn đơn giản hóa về quyền lực nhà nước như một siêu công ty cung cấp hàng hóa công cộng giúp chúng ta sẽ có những cách tiếp cận mới phục vụ công cuộc sửa đổi hiến pháp, cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Coi mỗi cấp chính quyền là một pháp nhân công quyền
Công ty Apple của ngài Steve Job có giá trị vốn hóa thị trường vào tháng 6 năm 2011 là 317,6 tỷ USD(1) gấp hơn ba lần GDP của Việt Nam (104,6 tỷ USD) năm 2010 (2) Một công ty lớn như vậy với hàng trăm công ty con, hàng ngàn văn phòng đại diện trên toàn cầu, nhưng mối quan hệ trách nhiệm giữa công ty mẹ ở Hoa Kỳ và các công ty con rất rõ ràng, khiến cho việc quản trị của ngài Steve Job trở nên nhẹ nhàng. Bí quyết làm cho mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con luôn tách bạch nằm ở khái niệm mà các nhà luật tư đã sáng tạo ra: pháp nhân. 
“Nếu không có khái niệm pháp nhân (theo luật tư) thì giả dụ khi anh A vào bể bơi dẫm phải vỏ chuối trên hành lang của một bể bơi và bị gãy tay, anh A nên kiện ai? Ai là người có lỗi: người quét dọn đã có lỗi không dọn rác kịp thời? Người bảo vệ đã có lỗi khi cho khách hàng mang chuối vào ăn trong khu vực bể bơi? Người ban hành nội quy đã có lỗi không cấm hành vi ăn chuối trong khu vực bể bởi? Mọi việc trở nên đơn giản trong luật tư: hãy kiện công ty cung cấp dịch vụ bể bơi. Việc quy kết trách nhiệm từng cá nhân cụ thể là việc nội bộ của công ty”
Cùng hướng tới mục đích tăng cường hiệu quả quản trị, minh bạch hóa quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con như ngài Steve Job thì các nhà luật học phương tây (Đức, Pháp) đã sáng tạo ra một khái niệm tương ứng với pháp nhân (theo luật tư) là “pháp nhân công quyền” (Rechtstraeger)(3). 
Họ quan niệm mỗi cấp chính quyền là một pháp nhân tồn tại có trách nhiệm độc lập với cấp chính quyền khác: có tài sản riêng (ngân sách riêng), có tên gọi riêng, có cơ cấu tổ chức độc lập, và đặc biệt có thể độc lập tham gia các quan hệ tố tụng nhân danh chính mình. 
Hiện nay không chỉ mỗi cấp chính quyền mà mỗi cơ quan nhà nước ở Việt Nam đều ít nhiều có những dấu hiệu bề ngoài nói trên và được xem là một pháp nhân (ngôn ngữ dân gian gọi là có con dấu riêng), nhưng khi xem xét kỹ thì các cấp chính quyền này chưa phải là một pháp nhân công quyền (Rechtstraeger) thực thụ, đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương chưa có sự tách bạch như quan hệ công ty mẹ - công ty con. 3
Hiến pháp hiện hành (Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001) của Việt Nam chưa ghi nhận quyền tự quản của chính quyền địa phương và quy định rất sơ sài về thẩm quyền, nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương. Sự mờ nhạt của hiến pháp dẫn đến các quyền và nguồn thu mà chính quyền địa phương có được là do chính quyền trung ương ban phát trong thông qua các đạo luật, nghị định, thông tư... Việc phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương luôn nằm trong trạng thái nhập nhằng bất định, có thể ví như xây dựng một hàng rào phân cách giữa hai chủ thể này, nhưng các cơ quan trung ương lại có thể ban hành văn bản để điều chỉnh, cắm lại hàng rào này vào bất kỳ thời điểm nào mà cơ quan trung ương thấy cần. Khi một quyền nào đó được phân cấp cho chính quyền địa phương thường có nghĩa là trung ương muốn ″nhả ra″ vì nó kém hấp dẫn hoặc vì ″không thể ôm xuể″. Đồng thời vào bất cứ khi nào, chỉ bằng một văn bản, quyền đã ″phân″ cho địa phương lại có thể trở về tay của trung ương.  
Quan niệm ″pháp nhân công quyền″ thiếu vắng trong Hiến pháp 1992, nên thiếu sự tách bạch giữa quyền và nghĩa vụ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương dẫn đến một hiện tượng thứ hai: trung ương đôi khi giao nhiệm vụ bất thường (một nhiệm vụ mà trong hiến pháp không ghi rõ là của địa phương hay của trung ương) cho địa phương nhưng nguồn lực tài chính và con người kèm theo không cân xứng. Chính vì giao việc theo kiểu ″anh em một nhà″ này, nên khi cấp dưới không hoàn thành nhiệm vụ thì trách nhiệm cũng theo kiểu ″anh em xuề xòa″. Nhưng nếu hai cấp chính quyền là hai pháp nhân công quyền thì câu chuyện ″của anh, của tôi″ sẽ rất rõ ràng, và nhiệm vụ sẽ đi liền với tiền bạc và trách nhiệm. Khi cấp trên muốn đề nghị cấp dưới thực hiện một nhiệm vụ của mình thì phải kèm theo đề nghị về tài chính, nhân sự; cấp dưới chỉ tiếp nhận khi đề nghị này đủ hấp dẫn, và khi tiếp nhận rồi thì cấp dưới chỉ thực hiện với tư cách làm thuê (bên B´), cấp trên vẫn phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về nhiệm vụ mà hiến pháp đã giao cho họ.
Khi các cấp chính quyền là những pháp nhân công quyền thực thụ và quan hệ giữa các cấp không phải là quan hệ thuần túy ″mệnh lệnh – phục tùng″ mà là quan hệ đối tác trên cơ sở hiến pháp, thì kinh nghiệm của các nền hành chính tiên tiến cho thấy, ngoài việc khắc phục được hai nhược điểm nói trên thì nền hành chính Việt Nam được thêm hai ưu điểm: đơn giản hóa cho công dân trong khiếu kiện hành chính và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh cần thiết giữa các địa phương.
Cạnh tranh minh bạch sẽ tạo sinh khí cho cải cách hành chính
Đối với doanh nghiệp, cạnh tranh một cách minh bạch sẽ làm thành sức sống doanh nghiệp, và hơn thế đóng góp vào sức mạnh của cả nền kinh tế.  Còn cạnh tranh giữa các cơ quan Nhà nước và chính quyền địa phương thì đem lại lợi ích gì? 
Ở Mỹ, để cạnh tranh thành công, các bang đều phải xác định lợi thế cạnh tranh của mình và triệt để xây dựng chính sách phát triển theo hướng khai thác lợi thế này. Muốn vậy, hệ thống pháp luật của Mỹ cho phép từng tiểu bang có mức độ tự chủ và độc lập nhất định trong việc xây dựng chính sách và các quy định pháp lý riêng. Lợi thế cạnh tranh được nghị viện từng tiểu bang khái quát thành các khẩu hiệu và kêu gọi nhân dân tiểu bang ủng hộ thực hiện, mà một trong những biện pháp dễ thấy là quy định việc gắn các khẩu hiệu vào biển số xe ô tô. Bang Massachusetts là điểm tập kết đầu tiên của người da trắng khi đến châu Mỹ và có truyền thống lâu đời về giáo dục với các trường đại học nổi tiếng như Harvard hay MIT. Vì vậy họ quyết định tập trung tăng cường chính sách phát triển giáo dục như là ngành công nghiệp không khói để tạo ra thu nhập và thế mạnh của tiểu bang. Với chiến lược như vậy nên các ô tô bang Massachusetts được gắn khẩu hiệu “Tinh thần Mỹ” (Spirit of America), còn bang New York giàu có, nơi tụ hội những trụ sở tập đoàn và tài phiệt lớn thì “hãnh diện” với dòng chữ “Bang đế chế” (Empire State)(4). Bang New Hampshire bé nhỏ, không có dầu mỏ như Texas, không có thương cảng như New York, không có các trường đại học nổi tiếng như Massachusetts nên đã chọn một chiến lược thích nghi rất khôn ngoan khi đưa ra chính sách miễn thuế VAT(5). Chính sách này đã thu hút hàng loạt các nhà máy có cơ sở sản xuất ở các bang lân cận nhưng lại đặt Outlet (6) trên đất New Hampshire giáp ranh với các bang khác. Dân cư ở vùng giáp ranh với New Hampshire thường sang các Outlet này mua sắm kết hợp du lịch, đặc biệt là các món hàng có giá trị trên 1.000 USD thì số tiền thuế VAT tiết kiệm có thể lên tới hàng trăm USD. Tuy không thu được một đồng thuế nào từ các vị khách mua sắm này, nhưng các vị khách này lại thúc đẩy ngành du lịch, dịch vụ của bang New Hampshire phát triển. 
Ở Việt Nam, những năm gần đây, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các địa phương đã hình thành, và thể hiện rõ rệt nhất ở việc lãnh đạo các tỉnh miên trung xa xôi đã thân chinh ra Hà Nội tổ chức những hội nghị xúc tiến đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư về tỉnh mình. Nhưng những lời có cánh về tiềm năng địa phương vẫn chưa đủ thu hút các nhà đầu tư vì họ vẫn quan ngại các thủ tục hành chính rắc rối, chậm trễ. Nắm bắt được điều này, nên nhiều lãnh đạo đã cam kết bảo đảm các bước thủ tục hành chính tại địa phương sẽ diễn ra đúng luật (không bị ngâm quá thời hạn). Và một vài địa phương hăng hái đi đầu trong cải cách thủ tục hành chính. Sự năng động, xông pha của các vị lãnh đạo này đã làm các địa phương như Đà Nẵng, Bình Dương nức tiếng toàn quốc về thu hút đầu tư nước ngoài, về cải cách hành chính. Những giải pháp tiên phong được báo chí nhắc đến như thi tuyển trưởng phòng ở TP. Hồ Chí Minh, thi tuyển hiệu trưởng ở Đà Nẵng, Nghệ An, xử phạt vi phạm giao thông qua camera... 
Tuy nhiên, các khuynh hướng cải cách táo bạo sớm bị đóng khung trong chiếc áo chật hẹp, bởi hiến pháp chưa thiết kế một hành lang cho sự cạnh tranh giữa các địa phương (một số cải cách bị cho là trái luật). Thay vào đó tư duy “cào bằng, rập khuôn” của thời kỳ bao cấp vẫn còn đậm dấu ấn trong hiến pháp hiến hành, với việc các địa phương táo bạo có khi phải nhận trát nhắc nhở của Cục kiểm tra văn bản – Bộ Tư pháp. Điều an ủi bù lại là một số giải pháp cải cách này sau đó được chính quyền trung ương ghi nhận mà việc xử phạt vi phạm trật tự giao thông bằng camera là một ví dụ. 
Hợp đồng: Một hình thức hợp tác nên mở rộng sang khu vực nhà nước
Hiện nay ở Việt Nam, sự hợp tác giữa hai cơ quan nhà nước đồng cấp diễn ra khá hạn chế mang tính vụ việc (adhoc) vì thiếu cơ sở pháp lý. Việc hợp tác giữa hai cơ quan nhà nước đồng cấp hiện nay thường trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên, hoặc do mối quan hệ tình thân giữa hai thủ trưởng cơ quan. Nhưng nếu các cấp chính quyền có sự độc lập tự chủ của một pháp nhân công quyền thực thụ thì họ có thể chủ động ký kết với nhau các thỏa thuận có giá trị pháp lý để giải quyết các nhu cầu chung. Hai lĩnh vực tiềm năng cho dạng hợp tác này là việc thỏa thuận thuê chung nhân sự và cùng xây dựng sử dụng các công trình phúc lợi công cộng. 
Thuê chung nhân sự(7): Các cấp chính quyền địa phương hiện nay đều có biên chế công chức gần như đồng nhất (đều có biên chế tối thiểu trong các mảng: Văn phòng – Thống kê, Địa chính – xây dựng, Tài chính – kế toán, Tư pháp – hộ tịch, Văn hóa – xã hội, Chỉ huy trưởng quân sự). Tình trạng này dẫn đến nơi thì công chức làm không hết việc, nơi thì công chức không nghĩ ra được việc gì mà làm cho hết ngày. Vì sao không khoán chi các công việc này và cho phép các xã ít công việc ở liền kề nhau có thể thỏa thuận cùng thuê một nhân viên đảm đương công việc của các công chức xã để các địa phương này tiết kiệm ngân sách chi dùng cho việc khác của địa phương. 
Cùng xây dựng công trình phúc lợi công cộng. Các công trình phúc lợi công cộng ở vùng nông thôn Việt Nam hiện nay rất thiếu thốn và được xây dựng rập khuôn: xã A có nhà văn hóa thì xã B cũng có, xã A có sân bóng đá thì xã B cũng có một cái nho nhỏ. Việc rập khuôn này đôi dẫn đến hai thái cực. Ở thái cực thứ nhất thì do nguồn vốn ngân sách của từng xã eo hẹp nên, mỗi xã đều có một công trình công cộng, nhưng có khi lại quá bé so với nhu cầu sử dụng của nhân dân. Ở thái cực ngược lại, có nơi dân cư thưa thớt, nhu cầu thấp, khiến các công cộng không được khai thác hết công suất. Như vậy, tại sao xã A không ký kết với xã B thỏa thuận cùng góp tiền và xây sân bóng đá trên đất xã A, xây bể bơi trên đất xã B và công dân hai xã đều có quyền sử dụng chung, qua đó nhân dân đều có sân bóng và bể bơi đàng hoàng hơn, khai thác triệt để hơn? 
Trong khuôn khổ quyền tự quản địa phương hạn hẹp của hiến pháp hiện hành, thì mong ước này khó có thể thành hiện thực. Vì nếu các hội đồng nhân dân và hai ông chủ tịch xã có mong muốn thực hiện thì chưa tìm đâu ra cơ sở pháp lý cho những thỏa thuận như vậy. Điều gì sẽ xảy ra sau năm năm hai ông chủ tịch xã hết nhiệm kỳ, và nhân dân hai xã có bất đồng về việc khai thác hai công trình nói trên? Tranh chấp liên quan thỏa thuận nói trên có thể mang ra phân xử tại tòa dân sự được không? 
Những vướng mắc này chỉ được gỡ bỏ, khi hiến pháp thừa nhận quyền tự quản của cấp địa phương và quan niệm các cấp chính quyền như là các pháp nhân công quyền, để từ đó tạo cơ sở pháp lý cho hợp đồng hành chính, cũng như các thỏa thuận theo luật công.
----
(1) Nguồn:
http://www.electronista.com/articles/11/0/03/not.reflective.of.actual.worth.more.potential/ 
(3) Khái niệm pháp nhân công quyền (öffentlicher Rechtstraeger) tương ứng nhưng không đồng nhất với khái niệm pháp nhân trong luật tư (juritische Person)
(4) Tòa nhà Đế chế (Empire State Building cũng là một biểu tượng quan trọng của Thành phố New York)
(5) Ở Hoa Kỳ thì thuế VAT do Nghị viện từng tiểu bang quy định. Điều này dẫn đến một hiện tượng giá niêm yết tại các shop chưa bao gồm VAT, nên cùng giá niêm yết như nhau nhưng mua hàng ở New Hampshire sẽ rẻ hơn mua ở Boston (giá sau thuế). 
(6) Outlet là nơi nhà máy trực tiếp bán sản phẩm đến tay người tiêu dùng mà không qua các nhà phân phối trung gian, nên giá thường rẻ hơn các shop thông thường.
(7) Ở điểm này thì tôi hoàn toàn tán thành quan điểm cho phép thí điểm đấu thầu công vụ của GS.TS. Phạm Hồng Thái.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét