TP - “Nếu nợ công tăng cao mà không có khả năng trả nợ
thì có thể dẫn đến vỡ nợ như Hy Lạp bây giờ. Quản lý yếu kém không những khiến
nợ công thất thoát, không phát huy hiệu quả mà còn đẩy quốc gia đến nguy cơ mất
chủ quyền vì phụ thuộc bên ngoài”, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nhận định.
Nợ tăng, khó trả
Nợ công tăng cao và tăng nhanh gần đây. Điều đó nói lên vấn
đề gì, thưa ông?
Điều đó nói lên Việt
Nam muốn đầu tư phát triển kinh tế và những dự án đầu tư vượt ngân sách của Nhà
nước. Mỗi năm Việt Nam đầu tư 42-43% GDP, trong khi tiết kiệm nội địa chỉ khoảng
chừng 30% GDP, có nghĩa là mình đầu tư trên khả năng tiết kiệm 13-14%. Muốn có
phương tiện để đầu tư cao hơn tiết kiệm nội địa thì một là vay nước ngoài, hai
là vay trong nước.
Nhà nước đi vay để đầu
tư vào những vấn đề mà người dân không thể đầu tư như phát triển hạ tầng mềm
như giáo dục, y tế... hay hạ tầng cứng như đường sá, cầu cống, bến cảng... Mỗi
ngày kinh tế của mình phát triển mạnh, đòi hỏi nhu cầu về vốn tăng cao để đầu
tư vào những lĩnh vực mà người dân không thể đầu tư được nên nợ công tăng nhanh
cũng là dễ hiểu.
Nợ công đang ở mức độ nào và đã đến mức cảnh báo chưa?
Nợ công hiện nay của
Việt Nam ở mức hơn 52% GDP, nhưng điều đó không nói lên vấn đề gì. Vay về để
làm gì và có đủ khả năng trả nợ hay không mới là vấn đề đáng nói. Nếu mình vay
52% GDP mà GDP của mình mỗi năm tăng 5-7% và tạo ra các nguồn thu ngân sách, và
trả được nợ công thì không thành vấn đề.
Chúng ta phải xem xét
nợ công đang được đầu tư vào lĩnh vực gì và hiệu quả tới đâu thì mới biết 52%
là nhiều hay ít. Nếu đầu tư vào những Cty phát triển tốt và chỉ số ICOR thấp
thì hiệu quả kinh tế cao sẽ không có vấn đề gì. Nhưng nếu đầu tư vào những
doanh nghiệp Nhà nước bị lỗ và ICOR là 8, 9 thậm chí 14, tức là không có hiệu
quả kinh tế và như vậy thì rất nguy hiểm.
Theo ông, khả năng trả nợ công của nền kinh tế hiện nay
như thế nào?
Chúng ta đang rất khó
khăn. Báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, 30% doanh
nghiệp đứng trước tình trạng phá sản và 50% doanh nghiệp đứng trước tình trạng
khó khăn. Nếu tình hình kinh tế cứ đình đốn thế này thì lấy đâu nguồn thu để trả
nợ công.
Tham nhũng, rút ruột kéo dài
Ngoài việc sử dụng vào mục đích đầu tư, nợ công còn được
đem cho vay lại?
“Những người đại diện
Nhà nước sử dụng tiền Nhà nước vay nước ngoài về để làm những việc ích nước lợi
dân mà không làm, mà làm thất thoát nghiêm trọng nợ công thì tội rất lớn.
Những người có
trách nhiệm mà rút ruột công trình thì không phải chỉ mắc tội ăn cắp mà còn
là tội làm mất chủ quyền quốc gia vì khiến quốc gia bị lệ thuộc nước ngoài. Tội
đó là cực kỳ nghiêm trọng.
|
Không phải chỉ 5, 10 hoặc 20 năm nữa các thế hệ sau phải
trả những khoản nợ đó mà khiến quốc gia rơi vào nguy cơ mất chủ quyền như bài học
của Hy Lạp thì cái đấy mới là nguy hiểm”- Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến
Thành
Thì đấy, Nhà nước
phát hành trái phiếu vay hàng trăm triệu USD về cho các doanh nghiệp nhà nước sử
dụng. Mỗi năm, Nhà nước đều cấp tiền cho các doanh nghiệp Nhà nước, một là dưới
hình thức cấp vốn, hai là dưới hình thức cho vay lại. Nhiều trường hợp cho vay
xong rồi lỗ thì khoanh nợ, khoanh xong rồi xóa nợ...
Theo ông, việc sử dụng nợ công hiệu quả tới đâu?
Ở Việt Nam đang có vấn
đề cực kỳ nghiêm trọng, đó là nạn tham nhũng và rút ruột các công trình đầu tư
từ nợ công. Ví dụ mình vay tiền về xây dựng xa lộ với mục đích là bền vững, hiện
đại nhưng vì rút ruột nợ công nên nền móng của con đường không có chất lượng, mới
mấy năm đã trồi lên trụt xuống.
Một lần làm không
xong, không đủ chất lượng phải phá ra làm lại, nhưng làm lại vẫn bị rút ruột. Một
công trình bị rút ruột ba, bốn lần. Nếu cứ tiếp tục như thế thì nợ công chồng
chất.
Theo báo cáo của Quốc
hội, công trình nào cũng bị rút ruột 5, 10, 20%, thậm chí đến 30%. Theo tôi được
biết từ báo cáo của Chính phủ, tình trạng rút ruột công trình rất nhiều mà
không giải quyết được. Một mặt, mình đầu tư vào những dự án không có hiệu quả
kinh tế; mặt khác do quản lý kém nên để xảy ra tiêu cực, tham nhũng và rút ruột
các công trình đầu tư từ nợ công.
Mình sử dụng nợ công
vào việc có ích, nhưng hiệu quả rất thấp. Chẳng hạn, mình làm con đường thì là
có ích chứ, bởi nó giúp cho việc thông thương hàng hóa, đời sống kinh tế, xã hội
hai bên con đường đó phát triển. Nhưng lẽ ra hiệu quả phải gấp 2-3 lần. Tức là
hiệu quả không xứng với đồng tiền bỏ ra và chỉ hiệu quả tức thời. Ví như con đường
người ta làm chạy được 20-30 năm thì mình làm chỉ chạy được 3-4 năm đã phải đào
lên sửa chữa.
Theo ông, làm thế nào để giảm nợ công?
Trước nhất, Nhà nước
phải xem lại tất cả các công trình đầu tư, cái nào cần và cái gì chưa cần. Vừa
qua phân cấp, phân quyền cho các địa phương nhưng địa phương làm vì quyền lợi của
địa phương chứ không phải vì quyền lợi của toàn quốc gia. Dẫn đến mỗi địa
phương lại có một cái cảng, địa phương đua nhau làm sân bay...
Anh nào cũng muốn làm
nhà máy xi măng, nhà máy đường kể cả làm nhà máy đường ở nơi không có mía, làm
xong để đó cho hư hỏng hoặc xin ngân sách để chuyển đi nơi khác có mía... Mình
phải rà soát lại và muốn nợ công được sử dụng tốt thì phải xem lại nợ công dùng
để làm gì. Nếu thật sự cần thiết thì phải làm hết sức tốt, nếu không cần thiết
thì dứt khoát cắt giảm.
Có thể vỡ nợ như Hy Lạp
Nợ công liên tục tăng cao sẽ dẫn đến hệ lụy gì?
Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành |
Nếu nợ công tăng cao
mà không có khả năng trả nợ thì có thể dẫn đến vỡ nợ như Hy Lạp bây giờ. Hệ lụy
của nợ công, nếu không trả được sẽ dẫn đến lệ thuộc nước ngoài, lệ thuộc các quốc
gia hay những tổ chức tài chính nào đó, bởi mình không có quyền kiểm soát mà phải
nghe theo họ. Thậm chí phải chấp nhận những việc mà bình thường một quốc gia không
thể chấp nhận được.
Hiện Việt Nam không
có lý do gì phải đi vay nợ công 100%, thậm chí 200% GDP như một số nước, nhưng
nếu cần thiết để phát triển kinh tế thì nợ công ở mức 50, 60 hay 70% GDP mà
mình có khả năng để hoàn trả thì không có vấn đề gì.
Theo ông vấn đề quan trọng là phải giảm nợ công
hay quản lý nợ công có hiệu quả?
Theo tôi, vấn đề quan
trọng nhất vẫn là quản lý có hiệu quả, và quản lý cái gì thì phải xem lại đầu
tư vào những cái gì, chứ không phải đầu tư vào những công trình mà mình chưa cần
dùng. Mình có chừng đó tiền thì phải làm những cái gì cho nó tốt nhất chứ không
phải là cắt giảm.
Mục đích không phải
là giảm nợ công mà là sử dụng hiệu quả để đất nước phát triển. Mà muốn sử dụng
cho tốt thì phải rà soát lại tất cả dự án đầu tư công và phải có những nhân sự
cần thiết để quản lý cho hiệu quả.
“Ông Thành nói: Theo báo cáo của Bộ Tài chính vừa công bố,
nợ nước ngoài của Việt Nam tính đến tháng 12-2010 là 32,5 tỷ USD, tăng từ 27,9
tỷ USD cuối năm 2009, trong đó nợ trực tiếp của Chính phủ là 27,9 tỷ USD, còn lại
là nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh. Năm 2009, nợ trực tiếp của
Chính phủ là 23,9 tỷ USD, bảo lãnh là 3,98 tỷ USD.
Theo Bộ Tài chính dự kiến, nợ công năm 2011 khoảng 58,7%
GDP.
Theo số liệu từ Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, nợ
công năm 2007 là 33,8% GDP, 2008 là 36,2%, 2009 là 41,9% và 2010 là 56,7% GDP.
Những con số này cho thấy tỷ lệ nợ công tăng cao và tốc độ tăng nợ công mỗi năm
khoảng 5%”.
Đại Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét